Cà Mau chủ động đối phó với xâm nhập mặn



Tỉnh Cà Mau đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp xâm mặn, nhiễm mặn, nhất là thời điểm từ đầu tháng 12 đến cuối tháng 5 năm sau tỉnh Cà mau đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.

Các giải pháp trên bao gồm: ở  những đoạn đang bị sạt lở nghiêm trọng ,tiến hành bồi trúc, gia cố trên 10 đoạn đê biển đông và đê biển tây với chiều dài trên 3 km. Chính quyền cơ sở đã huy động hàng trăm người tham gia chống sạt lở, hạn chế xâm mặn trên toàn tuyến đê biển.



Trong chương trình thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng giai đoạn 2015 - 2020 Cà Mau đã triển khai nâng cấp đê biển.

Chính quyền địa phương huy động hàng trăm lượt người tham gia đắp trên 700 con đập, bồi trúc trên 20.000 km đê sông nhằm ngăn chặn nhiễm mặn ven sông nội địa. Cách làm này đã mang lại hiệu quả là bảo vệ an toàn trên 50.000 ha đất nông nghiệp không bị nhiễm mặn.

Là tỉnh ven biển với bờ biển đông và đê biển tây tổng chiều dài trên 250 km; trong nội địa có trên 10.000 con sông; trong đó có trên 5.000 con sông là nước mặn. Vì vậy tình trạng xâm mặn, nhiễm mặn ở Cà Mau luôn diễn biến phức tạp, năm sau nghiêm trọng hơn năm trước. Ước tính hiện nay tỉnh Cà Mau có trên 5.000 ha đất nông nghiệp bị xâm mặn, nhiễm mặn.

Xâm mặn hay nhiễm mặn đều ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là vùng sản xuất lúa, cây ăn trái nếu bị nhiễm mặn thì sẽ bị mất trắng. Đối với xâm mặn thì tình hình còn phức tạp hơn, vì xâm mặn vùng ven biển nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ có nguy cơ phá vỡ quy hoạch vùng ngọt hóa, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nặng nề.

Là nông dân xã Khánh An, huyện U Minh , ông Nguyễn Thanh Bền chia sẻ, từ trước đến nay bà con trong vùng sản xuất lúa kết hợp với chăn nuôi, nhưng gần đây do đất đai bị nhiễm mặn nên mùa màng luôn bị thất bát.

Xâm mặn, nhiễm mặn là chuyện thường xảy ra đối với địa phương ven biển, là quy luật của tự nhiên. Nếu chủ động đối phó sẽ hạn chế thiệt hại. Với những giải pháp chủ động, kịp thời, Cà Mau sẽ hạn chế được thiệt hại do xâm mặn, nhiễm mặn gây ra.

Đê biển Gò Công ở Tiền Giang sạt lở mạnh

Mới vào đầu mùa gió chướng nhưng đê biển Gò Công ở Tiền Giang đang bị sạt lở mạnh. Những cơn sóng to  từ ngoài khơi xa theo gió chướng thổi mạnh đánh từng hồi vào bờ gây sạt lở đất đai, rừng phòng hộ kể cả nhà cửa nhân dân cũng bị nhiều thiệt hại.


Dài trên 21.000 m  tuyến đê biển Gò Công có nhiệm vụ hết sức quan trọng là ngăn mặn, giữ ngọt, bảo vệ sản xuất trên 40.000 ha đất và khoảng 500.000 dân các huyện vùng ven biển tỉnh Tiền Giang. Để tăng khả năng chống chịu của đê biển trước bão tố và triều cường, bên ngoài đê còn có đai rừng phòng hộ với chiều sâu từ 300 m đến ngoài 1.000 m tùy theo từng đoạn. Là tỉnh hạ lưu sông Tiền, tiếp giáp với biển Đông nên Tiền Giang chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn, triều cường phía đông và ngập lũ phía tây làm sạt lở, ngập úng, hạn mặn…Trong đó, đê biển Gò Công là một trong những tuyến đê giữ vai trò tiền tiêu chống chịu bão tố, triều cường hàng năm.



Chi cục Trưởng Chi cục Thủy lợi và Phòng chống lụt bão (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) tỉnh Tiền Giang - ông Nguyễn Thiện Pháp chia sẻ: được xây dựng từ trước năm 1975 đê biển Gò Công qua nhiều năm bị sóng gió, đặc biệt mùa gió chướng thổi mạnh kèm theo sóng to đã xâm thực khủng khiếp khiến toàn bộ tuyến đê hư hỏng, không còn phát huy tác dụng phòng chống thiên tai. Do vậy, đã hai lần phải di dời đê và tuyến đê mới hiện hữu, cách đê cũ khoảng 400 m sâu vào đất liền.



Mặc dù tỉnh đã nhanh chóng triển khai các giải pháp tích cực để bảo vệ đê và rừng phòng hộ nhưng biến đổi khí hậu gây sạt lở nặng, làm mất dần đai rừng phòng hộ, đe dọa an toàn đê, đe dọa an toàn cho những khu dân cư ven biển Gò Công. Các ngành chức năng đã khảo sát, trung bình mỗi năm biển lấn sâu vào đất liền từ 8 m đến 10 m. Rừng phòng hộ ngoài đê mất từng mảng lớn, có đoạn xung yếu khu vực xã Tân Điền, Tân Thành (huyện Gò Công Đông) sóng đánh trôi hết toàn bộ mảng rừng phòng hộ ngoài đê. Có đoạn, đai rừng còn vỏn vẹn từ 4 đến 20 m tính từ chân đê ra biển là thông tin được ông Pháp cung cấp.




Hiện tại có khoảng 5 km đê xung yếu thuộc xã Tân Điền coi như mất hoàn toàn đai rừng phòng hộ, phải trực tiếp đối mặt với sóng gió dữ dội. Đoạn xung yếu trên đang được Tiền Giang kiên cố hóa bằng nguồn vốn nâng cấp đê biển do Trung ương hỗ trợ. Chi cục Thủy lợi và Phòng chống lụt bão tỉnh Tiền Giang cho biết: trước tình hình hiện nay, nếu không có biện pháp hữu hiệu bảo vệ diện tích rừng phòng hộ còn lại và khôi phục rừng đã mất phía ngoài đê thì đến năm 2020 toàn bộ rừng phòng hộ bảo vệ đê biển Gò Công không còn. Tuyến đê biển Gò Công khi ấy khó tồn tại trước thiên tai.




Thông thường, sạt lở xảy ra vào mùa gió chướng thổi mạnh hàng năm. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thiện Pháp, chưa năm nào như năm nay, mới đầu mùa gió chướng nhưng sóng gió làm sạt lở mất hàng chục ngàn m2 đất ao mương nuôi thủy sản ven đê, làm sập thêm 3 căn nhà dân tại ấp Cầu Muống, xã Tân Thành. Trước đó, cũng tại khu dân cư ven đê ấp Cầu Muống đã có 3 nhà dân bị sóng biển đánh sập phải di dời khẩn cấp bảo toàn tính mạng.




Đầu tháng 12/2015, xã Tân Thành, một xã ven biển của huyện Gò Công Đông, là nơi nuôi nghêu ven biển rộng trên 2.000 ha vốn mang lại cho bà con sở tại nguồn nguồn lợi kinh tế hết sức quan trọng. Tại ấp Cầu Muống, chúng tôi gặp chị Đinh Thị Mai đang gom từng miếng gạch vỡ của nhà hộ dân phía ngoài bị sập, phải di dời để gia cố chân tường nhà mình. Hộ bên ngoài liền kề nhà bị sóng đánh sập nên bây giờ, nhà chị thành ra là điểm trực tiếp chống chịu sóng biển và gió chướng. Chị Mai cho biết, mấy hộ ở đây vừa phải di dời do không thể cầm cự trước mùa gió chướng năm nay.




Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Tân Thành -  ông Đoàn Thanh Hưng, có hai khu dân cư sống ngoài đê biển Gò Công gồm: Một điểm tại ấp Cầu Muống và một điểm tại ấp Tân Phú với khoảng 47 hộ dân. Đây cũng là hai điểm dân cư cần phải di dời khẩn cấp bởi tình hình sạt lở do biến đổi khí hậu ngày một gay gắt, phức tạp. Hiện nay, tỉnh đang lập dự án di dời các hộ dân trên vào khu tái định cư để bảo đảm an toàn. Trong thời gian chờ dự án thì năm ngoái đã có 3 hộ và đầu mùa gió chướng năm nay có thêm 3 hộ dân phải di dời khẩn cấp bởi nhà cửa bị sập.




Từ năm 2011, nhằm bảo vệ đê và rừng phòng hộ, trong khuôn khổ Chương trình củng cố nâng cấp đê biển được Chính phủ phê duyệt, Tiền Giang triển khai dự án nâng cấp đê biển Gò Công, tổng vốn đầu tư 877 tỉ đồng. Tuy nhiên, đến cuối năm 2015, mới chỉ thực hiện được một số hạng mục bức thiết trước mắt với kinh phí đầu tư khoảng 170 tỉ đồng, chiếm 19% tổng kinh phí toàn dự án.




Vừa qua, Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã có công văn gửi Thủ tướng Chính phủ đề nghị xem xét hỗ trợ khẩn cấp 405 tỉ đồng đầu tư kè mái đê biển ở những đoạn xung yếu, cứng hóa mặt đê biển, thực hiện chống xói lở, gây bồi và trồng lại rừng phòng hộ tại những nơi bị mất để bảo vệ an toàn tuyến đê. Song song đó, tỉnh cũng xúc tiến lập dự án hỗ trợ di dời trên 40 hộ dân sống ven đê biển đang đối mặt nguy cơ sạt lở cao mà đa phần đều là hộ dân ven biển nghèo khó. Trong số đó trên 50% số hộ không có đất để di dời. Rõ ràng, đây là những vấn đề bức thiết cần thực hiện nhằm đảm bảo an toàn cho đê biển Gò Công, phát huy được vai trò tuyến đê trong việc thích ứng biến đổi khí hậu, bảo vệ sản xuất và đời sống trên nửa triệu dân vùng ven biển tỉnh Tiền Giang.

Hàng trăm hecta đất nông nghiệp thành kho, xưởng




Nhiều người dân xã Yên Viên mới đây phản ánh  "Ở khu vực bãi bồi ven Sông Đuống, đoạn qua địa bàn xã Yên Viên, huyện Gia Lâm hàng trăm hecta đất nông nghiệp đang bị xẻ thịt, biến thành nhà xưởng, trạm sản xuất bê tông, ván ép và điểm tập kết, trung chuyển than cùng VLXD. Tình trạng này, không chỉ khiến cho diện tích đất sản xuất nông nghiệp lâu dài, ổn định của người dân ngày càng bị thu hẹp, nguy cơ ô nhiễm, sụt lún tăng cao trong mùa mưa bão…!".




Khi đến thực tế tại khu vực thôn Cống Thôn, xã Yên Viên, huyện Gia Lâm, người dân địa phương cho biết, tại khu bãi bồi ven Sông Đuống hiện có gần 20 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động.Theo Nghị định 64/CP những doanh nghiệp này về xây dựng nhà xưởng và lắp đặt máy móc để sản xuất bê tông… trên đất nông nghiệp mà trước đây chính quyền đã giao cho cách đây khoảng 10 năm}. Điều đáng nói, bên cạnh những đơn vị sản xuất cũ thì gần đây tại khu vực liên tục xuất hiện các nhà xưởng, điểm tập kết vật liệu xây dựng  mới. Cụ thể, là bãi cát của HTX Cầu Đuống, HTX Thành Đoàn, Công ty TNHH Minh Hạnh, Công ty cổ phần Xây dựng thương mại Đức Mạnh và doanh nghiệp tư nhân Minh Đức…


Hằng ngày, tại các bãi vật liệu xây dựng tàu thuyền, máy xúc, ô tô ra vào, hoạt động kinh doanh tấp nập, khiến cho môi trường quanh khu vực chỗ nào cũng mù mịt đất cát, khói bụi.

Do phải "oằn mình" chống đỡ các phương tiện cơ giới trọng tải lớn ra vào nên hệ thống đường giao thông dưới chân Đê Đuống chỗ nào cũng mấp mô, lồi lõm, xuống cấp nghiêm trọng. Hệ thống đường giao thông dưới chân Đê Đuống chỗ nào cũng mấp mô, lồi lõm, xuống cấp nghiêm trọng vì Do phải "oằn mình" chống đỡ các phương tiện cơ giới trọng tải lớn ra vào.  Hiện tại
các đơn vị trên vẫn chưa đủ các thủ tục về pháp lý trong việc kinh doanh và sử dụng đất. Trong đó, một số đơn vị hoạt động không có giấy phép từ nhiều năm nay như hợp tác xã Thành Đoàn, hợp tác xã Cầu Đuống, Công ty Bê tông Vinh Huy...

Theo anh Trần Văn Mạnh, một người dân xã Yên Viên thì toàn bộ diện tích đất bãi bồi nói trên cách đây 10 năm người dân địa phương vẫn canh tác, sản xuất hiệu quả. Chỉ đến khi các doanh nghiệp ồ ạt kéo về xây dựng nhà xưởng, sản xuất, buôn bán VLXD  thì hoạt động sản xuất có phần kém đi. Gần đây, do nước sông cạn, không bồi đắp đủ lượng phù sa nên việc sản xuất nông nghiệp lại càng gặp nhiều khó khăn. Vì việc canh tác không hiệu quả, dần dần một số hộ đã bán hoặc cho các doanh nghiệp thuê lại sử dụng vào mục đích khác. Ngoài ra, một số diện tích đất công, thùng đào, hố đấu để hoang hóa từ nhiều năm nay cũng được Ủy ban nhân dân  xã Yên Viên đứng ra ký hợp đồng cho các hộ kinh doanh thuê với giá từ 10 đến 15 nghìn đồng/m2/năm. Các doanh nghiệp tập trung kinh doanh, sản xuất tại đây đa số là của người dân địa phương, chỉ có một số ít là của người từ nơi khác đến.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân  xã Yên Viên - ông Nguyễn Văn Kỷ cho biết, địa phương đã kiểm tra và đình chỉ việc mở rộng, xây dựng nhà xưởng trái phép của các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp chưa có giấy phép kinh doanh, chính quyền cũng đã rà soát và yêu cầu hoàn thiện các thủ tục pháp lý theo quy định. Nếu sang năm 2016, các đơn vị này không xuất trình được các văn bản liên quan đến việc sử dụng đất và giấy phép kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền cấp, Ủy ban nhân dân  xã sẽ xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.

Như thế, có thể nhận thấy thời gian qua công tác quản lý đất đai trên địa bàn xã Yên Viên đã bị buông lỏng. Tại sao hàng trăm héc ta đất nông nghiệp lại có thể được mua bán, chuyển đổi thành nhà xưởng, kho bãi một cách dễ dàng?

Xấp xỉ mức báo động II triều cường đang lên cao ở Đồng Nai

Khu vực Nam bộ theo dự báo của Đài Khí tượng Thủy văn thì triều cường vùng hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai – Sài Gòn đang ở dâng cao và có khả năng có thể lên cao trong một ngày tới. Mực nước trên sông Đồng Nai tại trạm Biên Hòa đang ở mức 1,75 mét, xấp xỉ mức báo động II.





Mực nước trên sông Đồng Nai đang lên cao, xấp xỉ mức báo động II -Ảnh: TL



Dự báo trong một ngày tới, mực nước trên sông Đồng Nai tại trạm Biên Hòa tiếp tục lên và có khả năng sẽ chạm mức báo động II. Đỉnh triều xuất hiện vào khoảng thời gian 6 – 7 giờ sáng và 19 - 20 giờ tối.



Trong khi đó, kết quả đo mực nước tại trạm Tà Lài, huyện Tân Phú (Đồng Nai) phía thượng nguồn sông Đồng Nai cho thấy mực nước vẫn dưới mức báo động I và không cao lên trong những ngày tới. Hiện nay, mực nước thực tế đo được tại hồ Trị An là 59,62 mét, vẫn chưa đạt cao trình thiết kế của đập thủy điện Trị An là 62 mét.



Do khu vực phía Nam đang bước vào mùa khô, thời điểm hiện nay mưa ít hơn, do đó, lượng nước về hồ Trị An cũng chỉ đạt 340 mét khối/giây và lưu lượng nước qua tua bin nhà máy điện là 417 mét khối/giây.



Với lượng xả như hiện nay, hầu như không ảnh hưởng đến khả năng ngập lụt ở khu vực phía hạ lưu đập thủy điện. Tuy nhiên, do thủy triều đang dâng cao ở phía hạ lưu sông Đồng Nai, nếu mực nước vượt mức báo động II thì nhiều vùng hạ du như một số nơi thuộc huyện Long Thành, Nhơn Trạch cần đề phòng ngập lụt.

Suối Gia Ôi bị "bức tử"



Ôm trọn thị trấn Tô Hạp từ lâu, suối Gia Ôi là nguồn cung cấp nước sinh hoạt gần 1000 hộ dân ở thị trấn Tô Hạp, xã Sơn Trung và xã Ba Cụm Bắc huyện Khánh Sơn.Nhưng hiện tại, suối Gia Ôi đang bị “bức tử” vì một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật từ việc canh tác nông nghiệp của người dân ở khu vực thượng nguồn. Tình trạng trên đe dọa đến sự sống còn của nhà máy nước Tô Hạp và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân.


Ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước

Đi bộ chừng hơn 1 giờ đồng hồ từ thị trấn Tô Hạp trên con đường lổn nhổn đất đá, là đến thượng nguồn con suối Gia Ôi. Trời bắt đầu mưa lấp phất, thỉnh thoảng những cơn gió lùa tới, mang theo mùi hôi nồng của thuốc trừ sâu bốc lên rất khó chịu.

Cán bộ kỹ thuật Ban quản lý Các công trình Công cộng và Môi trường huyện Khánh Sơn anh Mai Văn Đạt chia sẻ: “ Suối Gia Ôi trước đây là con suối nước trong xanh, sinh vật như cá tôm, cua ốc khá đa dạng, 5 năm trở lại đây, người dân địa phương tìm đến vùng thượng nguồn suối Gia Ôi sản xuất nông nghiệp ngày càng đông. Do vùng đất này khá màu mỡ lại thuận lợi nguồn nước tưới nên hàng trăm héc- ta(ha) đất ở khu vực này đã hình thành những rẫy cà phê, những nương lúa xanh mướt. Người dân sinh sống ở đây chủ yếu là người Jagrai, họ làm nhà, dựng lều bên cạnh suối Gia Ôi để sản xuất nông nghiệp”.




Có hơn 38 hộ dân làng Tà Lương sinh sống ở thượng nguồn suối Gia Ôi, họ sống tập trung thành làng, hộ ít thì sản xuất khoản 4-5 ha cà phê, chuối, lúa, râu màu, hộ nhiều thì sản xuất 20-30 ha. Ông Ma- Heng, đang phun thuốc cỏ bên bờ suối, gặp tôi ông cứ tưởng là thương lái, nên phân giải thích: “Giá nông sản năm nay thấp quá, chi phí lại nhiều,15 ha cà phê, lúa nước, chuối của nhà tôi trừ đi chi phí chỉ còn lời rất ít. Năm nay mưa nhiều nên cỏ lên nhanh, sâu bệnh nhiều, nương rẫy nhà tôi phải phun thuốc trừ cỏ, trừ sâu liên tục. Mặc dù vẫn biết phun thuốc cỏ, thuốc trừ sâu ảnh hưởng đến nguồn nước nhưng vẫn phải làm thôi! ”.




Bà Gia-hiên đang tỉa cành cà phê cũng chia sẻ: “Mặc dù cán bộ thi trấn thường xuyên vào làng khuyên bà con hạn chế dùng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ ở đầu nguồn nước, nhưng nếu không dùng thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu thì ruộng vườn không xanh tốt được. Hàng ngày chai lọ thuốc trừ sâu cứ vứt bừa ra hai bên bờ suối, có người còn đem cả máy bơm thuốc sâu xuống suối chùi rửa”.




Được biết loại thuốc diệt cỏ Rapid và Grassad, có hàm lượng độc tố rất cao, nhưng, nhiều người dân không chỉ pha đậm đặc hơn thông thường phun liên tục ở hai bên bờ suối. Điều này không chỉ tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm đất ngay tại nương rẫy, mà suối Gia Ôi trong lành hàng ngày đang bị đe dọa, bị “bức tử” bởi thuốc trừ sâu và hóa chất độc hại. Điều đáng nói Gia Ôi là nguồn cung cấp nước sinh hoạt, ăn uống hàng ngày duy nhất cho hàng ngàn người dân Khánh Sơn thông qua công trình nước sạch của thị trấn Tô Hạp, tình trạng ô nhiễm hóa chất ở đầu nguồn suối Gia Ôi đang là tình trạng vô cùng nguy hiểm, đe dọa đến sức khỏe người dân.

Anh Mai Văn Đạt vừa đưa tay mở ngăn chứa nước ở Bể Dâng bến suối vừa bộc bạch nỗi lòng: “Trước đây cá dưới suối Gia Ôi rất nhiều, chỉ cần ra suối chừng nữa tiếng đồng hồ có thể bắt được vài kg cá suối cải thiện thêm các bữa ăn cho anh em. Mấy năm nay do ô nhiễm nguồn nước, cá tôm chết hết rồi, chai lọ thuốc trừ sâu cứ trôi nỗi trên suối thì sinh vật nào mà sống sót được. Cứ vài ngày công nhân nhà máy mà không đi vớt vỏ chai, thì các loại chai lọ này sẻ làm tắc bể dâng nhà máy”.


Hệ lụy khó lường

Rời con suối đầu nguồn, chúng tôi đến nhà máy nước Tô Hạp, công trình nhà máy nước Tô Hạp Xây dựng năm 2001, công suất 1100m3/giờ và đi vào hoạt động chính thức năm 2002. Nguồn nước nhà máy nươc Tô Hạp bắt về từ con suối Gia Ôi. Theo quan sát của chúng tôi thì các hạng mục của nhà máy như bể lọc, bể chứa đã khá cũ, rong rêu bám dày đặc, bể lọc rêu và chất cặn sủi lên đặc quánh.

Anh Nguyễn Khoa Trưởng, Trưởng Ban quản lý Các công trình Công cộng và Môi trường Khánh Sơn phàn nàn: “Tôi mới về nhận công tác ở đây được hơn một năm, nhà máy nước Tô Hạp công nghệ đã quá cũ, đường ống nước tự chảy làm bằng sắt đã hoen rỉ, nhiều đoạn bị móp nặng, thỉnh thoảng có đoạn bị thủng và xì nước ra ngoài. Nhà máy chỉ có duy nhất một bể lọc, một bể chứa nên không thể đáp ứng lượng nước cho gần 1000 hộ dân sử dụng như hiện nay. Chúng tôi đã khảo sát và đề nghị có phương án xây thêm bể lắng, nhưng hiện tại kinh phí chưa có nên chỉ biết chờ phê duyệt từ Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa”.

Điều hiểm họa cho nhà máy nước Tô Hạp, nguồn nước cung cấp cho Nhà máy đang bị nhiễm độc do người dân thường xuyên sử dụng phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ, thuốc bảo vệ thực vật. Nhân viên Nguyễn Văn Mạnh, người thường xuyên phải trực tại nhà máy nước Tô Hạp cho biết: “ Mùa mưa đã đến, trực ở nhà máy vất vả lắm, chỉ cần một trận mưa là nước từ thượng nguồn đổ về đục ngầu, nhiều khi có cả mùi của thuốc bảo vệ thực vật. Nếu xả bể thì không có nước cung cấp cho các hộ dân, nhưng nếu không xả bể để nước như vậy sử dụng sẻ không đảm bảo được sức khỏe”.

Nói về các giải pháp khắc phục ô nhiễm nguồn nước, ông Nguyễn Quốc Thái, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn Tô Hạp cho biết: “Ủy ban nhân dân thị trấn đã nhiều lần chỉ đạo đoàn thanh niên, phối hợp với hội phụ nữ vào tận thượng nguồn, đến tận nhà vận động, hướng dẫn bà con sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ phù hợp, hợp vệ sinh tránh ô nhiễm nguồn nước, thế nhưng các hộ dân ở đây dương như không nghe, không thấy, không làm”.

Người dân ở thị trấn Tô Hạp mặc dù biết nước sinh hoạt ở nhà Máy Tô Hạp không đảm bảo vệ sinh nhưng vẩn phải chấp nhận sử dụng, bởi không có nguồn nước khác. Nhiều hộ gia đình điều kiện kinh tế khá giả, ý thức được nước đối với sức khỏe, họ tự mua hệ thống lọc nước về lắp tại gia đình. Đa phần người dân lao động lại phó mặc số phận cho sự may rủi.

Để có biện pháp khắc phục tình trạng trên chúng tôi có cuộc trao đổi nhanh với ông Đinh Ngọc Bình, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Khánh Sơn trần tình: “Ban đầu Ủy ban nhân dân huyện tính phương án di rời 38 hộ dân ở thượng nguồn suối Gia Ôi đến nơi ở mới nhưng số hộ dân quá lớn, họ đã canh tác ôn định nên phương án nay không khả thi. Hiện nay, dự án hồ chứa nước Sơn Trung đã được Hội đồng nhân dân tỉnh thống nhất chủ trương đầu tư, được bổ sung vào danh mục các dự án Sơn Trung giai đoạn 2016 - 2020. Hồ chứa nước Sơn Trung sẽ được đầu tư để tích trữ nước cho sản xuất nông nghiệp và cung cấp nước sinh hoạt cho khu vực xã Sơn Trung, thị trấn Tô Hạp và một số khu vực lân cận. Vì vậy, huyện sẽ di dời Nhà máy nước Tô Hạp sang Sơn Trung”.

Không biết chủ trương di rời nhà máy nước đến bao giờ mới thực hiện được, thế nhưng hàng nghìn người dân vẫn đang phải sử dụng nguồn nước bị nhiễm độc, tương lai và sức khỏe của họ đang là câu hỏi lớn đặt ra cho các nhà chức năng?

Ô nhiễm trầm trọng ở các làng nghề Bắc Ninh


Tỉnh Bắc Ninh ngày càng phát triển về kinh tế- xã hội Với hơn 62 làng nghề đang phát triển mạnh mẽ, trong đó có 31 làng nghề truyền thống thu hút hơn 76 nghìn lao động và đóng góp gần 8% GDP của tỉnh, song cũng đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm làng nghề đang ngày càng diễn biến trầm trọng.



Là tỉnh phát triển mạnh mẽ theo hướng công nghiệp, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ trong những năm gần đây và nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Tỉnh Bắc Ninh ngoài là địa phương tập trung các khu công nghiệp lớn, các công ty, xưởng chế xuất vừa và nhỏ trên địa bàn toàn tỉnh, Bắc Ninh còn nổi tiếng với sự phát triển mạnh mẽ các làng nghề như: Đồ gỗ Đồng Kỵ, đúc đồng Đại Bái, giấy Yên Phong, thép Đa Hội, tranh dân gian Đông Hồ, bún bánh Khắc Niệm, tái chế Nhôm Văn Môn, gốm Phù Lãng….

Có diện tích nhỏ nhất Việt Nam nhưng lại là tỉnh có nhiều làng nghề nhất cả nước, Bắc Ninh hiện có tổng cộng 62 làng nghề phân bố đồng đều trên địa bàn toàn tỉnh (1 thành phố trực thuộc tỉnh, 1 thị xã và 6 huyện), trong đó có 31 làng nghề truyền thống có hơn 76 nghìn lao động và đóng góp gần 8% GDP của tỉnh. Bắc Ninh đang từng ngày phát triển hơn về kinh tế- xã hội song cũng đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm trầm trọng ở các làng nghề .

Có 6 tụ điểm đã được nhắc đến trong danh sách ô nhiễm “có tiếng” hiện nay bao gồm: Làng nghề tái sản xuất giấy Phong Khê (tp. Bắc Ninh), làng bún Khắc Niệm(xã Khắc Niệm, TP Bắc Ninh); Làng nghề tái chế nhôm Mẫn Xá (Yên Phong); Làng nghề đúc đồng Đại Bái (Gia Bình); Làng nghề tái chế thép Đa Hội (thị xã Từ Sơn); Làng đúc đồng Quảng Bố (Lương Tài), nếu không quản lý tốt, tình trạng ô nhiễm có thể sẽ lan rộng trên địa bàn toàn tỉnh. Bởi một quy luật ở đâu có làng nghề ở đó sẽ ô nhiễm.




Phần lớn các cơ sở làng nghề ở Bắc Ninh chủ yếu sản xuất với quy mô nhỏ, không đủ điều kiện để xử lý triệt để nước thải, chất thải, khí thải… tại chỗ nên đã gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sức khỏe người dân.

Theo báo cáo của Trạm Y tế xã Đại Bái (Gia Bình), trong vòng 3 năm từ 2001 - 2014, chỉ tính riêng xóm Trại, thôn Đại Bái đã có 23 người chết do các bệnh ung thư. Người chết có xu hướng trẻ hóa, chủ yếu ở độ tuổi từ 45 đến 50.Tại hai làng bún bánh Khắc Niệm và rượu cồn Đại Lâm là những làng nghề có mức độ ô nhiễm cao nhất với 48/450 chỉ tiêu ô nhiễm vượt giới hạn cho phép. Số lượng người mắc bệnh ngày càng tăng trong đó căn bệnh thường gặp là viêm đường hô hấp cấp, đường tiêu hóa, bệnh phổi.Tỷ lệ chết do ung thưđứng đầu cả nước suốt hai năm gần đây ở làng tái chế nhôm Văn Môn, nặng nề nhất là thôn Mẫn Xá, những cái chết thương tâm, như một lời cảnh tỉnh về mức độ ô nhiễm đáng báo động. Việc hiện trạng ô nhiễm tại các càng làng nghề này như thế nào, hậu quả mà con người đã phải hứng chịu ra sao thì có lẽ trong bài viết này không cần phải nhắc lại quá nhiều tất cả đều có mẫu số chungcho ta thấy sự kinh khủng của ô nhiễm làng nghề.




Việc phát triển làng nghề là điều cần thiết. Tuy nhiên, nếu không quản lý cho tốt rất có thể chỉ trong một vài năm nữa Bắc Ninh sẽ vươn lên dẫn đầu về tình trạng ô nhiễm làng nghề. Đây thực sự là bài toán khó khiến các nhà quản lý lo “ngay ngáy”.

Theo đó, tỉnh Bắc Ninh đặt mục tiêu đến năm 2020 sẽ công khai và cập nhật thường xuyên danh sách, thông tin về thực trạng các làng nghề được công nhận, làng nghề chưa được công nhận và làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, quản lý chặt chẽ công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề, cơ bản kiểm soát được tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề; không phát sinh làng nghề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng mới. Tất cả các cơ sở sản xuất còn tồn tại trong các làng nghề chưa được công nhận có biện pháp xử lý chất thải theo quy định hoặc di dời vào Cụm công nghiệp làng nghề hoặc chấm dứt hoạt động. Phấn đấu đến năm 2030, các làng nghề trên địa bàn tỉnh được công nhận, thống nhất quản lý và tuân thủ đầy đủ các điều kiện về bảo vệ môi trường nhằm triền khai theo Đề án tổng thể Bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Bên cạnh đó, cần có kế hoạch bảo tồn, phát triển làng nghề trở lại giá trị truyền thống, phát huy vai trò cải thiện sinh kế cho người dân nông thôn, không để lại hậu quả khôn lường cho môi trường và sức khỏe con người.

Tuy nhiên, đó chỉ là kế hoạch được vạch ra còn thực hiện được bao nhiêu, đến đâu còn phụ thuộc vào sự nỗ lực của toàn tỉnh trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo và thực thi… nếu không muốn trong 1 vài năm nữa Bắc Ninh sẽ “dẫn đầu về tình trạng ô nhiễm làng nghề”.

"Tối hậu thư" cho dự án chậm tiến độ


Công ty CP Đầu tư và Xây lắp Dầu khí Sài Gòn bắt buộc phải hoàn thành Dự án Khu dân cư phát triển đô thị khu vực 2 và 3, phường 5, TP.Vị Thanh (Hậu Giang) vào ngày 30/03/2015.

Công ty CP Đầu tư và Xây lắp Dầu khí Sài Gòn về tiến độ Dự án Khu dân cư phát triển đô thị khu vực 2 và 3 phường 5, TP. Vị Thanh đã có buổi làm việc với Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang cùng các Sở, ngành chức năng.



Sau khi nghe đại diện Công ty CP Đầu tư và Xây lắp Dầu khí Sài Gòn nêu lên những khó khăn dẫn đến việc thực hiện dự án chậm so với tiến độ đã đề ra ở buổi làm việc, Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang đã chấp thuận gia hạn hoàn thành dự án Khu dân cư phát triển đô thị khu vực 2 và 3 đến ngày 30/3/2016. Nếu quá thời hạn nêu trên, nếu doanh nghiệp này vẫn chưa hoàn thành thì Sở Kế hoạch và Đầu tư tham mưu trình Ủy ban nhân dân tỉnh thu hồi dự án này.

Ngoài ra, Công ty CP Đầu tư và Xây lắp Dầu khí Sài Gòn thống nhất Ủy ban nhân dân thành phố Vị Thanh về việc mua lại một số nền đất trong khu dân cư này để phục vụ việc bố trí tái định cư cho các hộ dân bị ảnh hưởng một số dự án khác trên địa bàn thành phố trong quý I/2016.

Vào năm 2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang đã chấp thuận chủ trương cho Công ty CP Đầu tư và Xây lắp Dầu khí Sài Gòn đầu tư xây dựng Khu dân cư phát triển đôi thị 2 và 3 thuộc phường 5, TP. Vị Thanh với tổng diện tích trên 60ha. Dự án này được kỳ vọng sẽ góp phần quan trọng làm đổi thay bộ mặt trung tâm tỉnh lỵ Hậu Giang, giải quyết nhu cầu nhà ở chất lượng cao cho người dân…Thế nhưng, sau nhiều năm được giao đất, nhà đầu tư không triển khai thực hiện dự án theo tiến độ, khiến cho chính quyền địa phương và người dân nơi đây bức xúc đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi lại dự án này…

Ngập rác ở đảo Bình Ba

Đảo Bình Ba đang dần trở nên ô nhiễm sau 1 thời gian khai thác du lịch, vẻ đẹp hoang sơ nay còn đâu chỉ còn những bao bì, túi nylon, thùng xốp .... nổi lềnh bềnh và bốc mùi hôi thối ở đảo Bình Ba, trực thuộc thành phố Cam Ranh, Khánh Hòa...
Được thiên nhiên ban cho vẻ đẹp hoang sơ cũng những rặng san hô đầy màu sắc quyến rũ Bình Ba là đảo lớn nhất trong vịnh Cam Ranh . Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường ở đây đáng báo động khi rác thải tràn ngập khắp nơi.



Gần tháng qua, sau cơn mưa lũ dài ngày, Cầu Cảng – nơi đón du khách của xã đảo đầy các loại rác nguy hại, không thể phân hủy như: bao bì, túi nylon, thùng và hộp xốp đựng thức ăn…. nổi lềnh bềnh trên mặt biển.

"Một phần nguyên nhân là do những hộ nuôi thủy sản ở ngoài đìa. Sau khi cho tôm cá ăn, các bao bì đựng thức ăn đều bị họ ném xuống biển. Mỗi lần mưa dài ngày hay đợt thủy triền lên, sóng đưa rác thải nhiều nơi tấp vào bờ", một người dân địa phương cho biết.

"Những loại rác này cũng do du khách đến đảo vứt lại. Địa phương phát động nhiều đợt thu gom rác nhưng rồi đâu lại vào đấy", ông Nguyễn Văn Cư, 59 tuổi, nói.

Bến neo đậu tàu thuyền, kênh bêtông dài chừng một km, đường dẫn vào khu dân cư và các điểm tham quan khác trên đảo có hàng tấn rác ứ đọng, bốc mùi hôi thối.

Xung quanh những pano quảng cáo các khu vui chơi, thư giãn ở đảo ngập túi nylon, bao bì đựng thức ăn sinh hoạt nằm ngổn ngang, ruồi nhặng bu kín.

"Bên trong các bịch đó đôi khi là gia cầm chết, dân mang ném thẳng xuống biển, trôi dạt vào bờ", ông Nguyễn Văn Sanh, 55 tuổi, người dân tại đây cho biết.

Ông Trần Văn Hóa – Chủ tịch xã Cam Bình (TP Cam Ranh) nhìn nhận môi trường ở đây chưa đảm bảo và đang là vấn đáng đề lo ngại. "Trên đảo Bình Ba có gần 1.000 hộ, ngoài nuôi trồng thủy sản và đi biển, người dân còn mưu sinh nhờ vào kinh doanh du lịch. UBND xã luôn tăng cường tuyên truyền ý thức cho người dân và du khách bảo vệ môi trường thật tốt để phát triển lâu dài", ông Hóa cho hay.

Theo ông Hóa, có hơn tấn rác từ người dân, các hộ nuôi và chế biến thủy sản đổ ra mỗi ngày. "Hiện có 5 đội gồm 30 người chuyên thu gom các loại rác thải trong ngày. Địa phương chưa có nhà máy xử lý nên rác được thu gom đều mang về hầm rộng gần 30 m, sâu hàng chục mét, nằm cách khu dân cư hơn 5 km để đốt", chủ tịch xã nói.


Trong quy chế đảm bảo an ninh, an toàn Căn cứ quân sự Cam Ranh do Thủ tướng phê duyệt mới đây, đảo Bình Ba nằm trong vành đai căn cứ quân sự, khu vực mũi Hời, đảo Bình Ba và Hòn Chút thuộc TP Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, sẽ không được phát triển các loại hình du lịch.

Tái chế phân compost từ rác sinh hoạt



Giải khuyến khích tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật lần thứ VI của tỉnh Khánh Hòa đã trao cho ông Trần Văn Lía (Ninh Phụng, Ninh Hòa) với sáng tạo sản xuất phân compost  từ rác thải.





Trăn trở trước tình hình đất sản xuất nông nghiệp ngày càng cằn cỗi, bạc màu do canh tác quá mức; đồng thời, một lượng lớn rác sinh hoạt bị đốt bỏ hoang phí, gây ô nhiễm môi trường, ông Lía đã nghĩ tới chuyện sản xuất phân bón từ rác.

Trước hết, ông tạo thói quen cho các hộ gia đình phân loại rác thải tại nguồn. Những loại rác vô cơ như: kim loại, thủy tinh, gốm sứ... khó phân hủy được thì phân riêng để vận chuyển về bãi rác; rác như: cây cỏ, lá được gom riêng để ủ làm phân bón. Hộ nào đất chật, diện tích cây trồng ít nên ủ phân trong thùng nhựa 200 lít, không cần dùng hóa chất, thời gian ủ 90 - 120 ngày là có phân sử dụng. Hộ gia đình có diện tích đất rộng, cần lượng phân lớn bón cho cây trồng thì sử dụng bạt ủ thành đống lớn. Bổ sung vôi vào rác thực vật, sau 15 ngày rác bắt đầu phân hủy sau đó đem ra cho giảm sức nóng và trộn đều với men vi sinh Trichoderma rồi ủ tiếp, chờ 45 - 50 ngày phân tự hoại là có thể dùng được. Cách sản xuất phân bón từ rác đơn giản, dễ làm, hiệu quả cao, khắc phục tình trạng “bón phân chay” (lạm dụng phân vô cơ, ít sử dụng phân hữu cơ làm cho đất ngày càng thoái hóa, bạc màu...) của nông dân.

>>>Xêm thêm: giá vi sinh xử lý nước thải

Ông Lía chia sẻ, trước đây ông thường canh tác cây ớt và cà tím, sau vài vụ là thất bại do cách bón phân không hợp lý, sâu bệnh hại phát sinh làm cây èo uột, thiếu sức sống. Từ lúc ủ phân vi sinh từ rác, bón cho cây phát triển tốt, ít sâu bệnh, sức đề kháng cao...

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Ninh Phụng – ông Trần Ngọc Thơ chia sẻ, giải pháp của ông Lía được xã triển khai thí điểm tại 30 hộ nông dân thôn Phú Bình (Hội Nông dân tỉnh hỗ trợ 30 thùng đựng) từ tháng 7, cuối tháng 11 sẽ tiến hành tổng kết chương trình. Phương pháp này góp phần hạn chế việc lạm dụng phân hóa học của nông dân, tạo thói quen cho người dân biết cách phân loại rác, giải quyết lượng rác quá lớn ở nông thôn gây sức ép lên các bãi rác...

Thủy sản nhiễm vi sinh vẫn có thể ăn được nếu chế biến đúng cách

Theo nghiên cứu về thủy hải sản, VSV có ở khắp mọi nơi nên vào các mặt hàng thủy sản là chuyệnbình thường.Nhiềungườisuy nghĩkhông đúng rằng thực phẩm này sẽ gây hại tuy nhiên chỉ 1 lượng nhỏ vi sinh vật trong thủy sản thì không đáng kể , chỉ cần nấu chín là có thể ăn được




>> Xem thêm các bài viết liên quan ở đây: vi sinh xử lý nước thải .


Theo thông tin bộ NN-PTNT cho biết chỉ trong thời gian 9 tháng đầu năm số lượng các lô hàng vi phạm lần lượt là 165 và 78 lô tại một cuộc họp báo mới đây do bộ NN-PTNT tổ chức. Đối với hàng xuất khẩu, theo cảnh báo của các thị trường, 9 tháng đầu năm đã có 181 lô hàng bị cảnh báo về chỉ tiêu kháng sinh cấm sử dụng, kháng sinh hạn chế sử dụng, vi sinh và các cảnh báo khác.

Phóng viên băn khoăn tại sao một số mặt hàng bị trả về do không đạt tiêu chuẩn nước ngoài lại đem về Việt Nam tiêu thụ, ông Nguyên Như Tiệp - Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản (Bộ NN-PTNT) cho biết, khi hàng trả về tiêu thụ trong nước cũng không có vấn đề gì.

“Một số mặt hàng thủy sản như tôm nếu bị trả do vấn đề chỉ tiêu vi sinh thì chỉ cần luộc lên là có thể ăn được”, ông Tiệp nói.

Câu nói “tôm luộc lên có thể ăn được” mà ông Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và thủy sản khuyên người tiêu dùng đã khiến cho dư luộn xôn xao. Mọi người cho đó là khôi hài, là không đúng, Cục trưởng nói vậy là để trấn an tinh thần người dân.

Trao đổi với PV xung quanh vấn đề này, PSG-TS Nguyễn Duy Thịnh (Viện sinh học-Công nghệ thực phẩm - Đại học Bách Khoa Hà Nội), cho biết, vi sinh vật là loại cực kỳ bé nhỏ mà mắt thường của con người không thể nhìn thấy được. Nó tồn tại ở dạng vi khuẩn, nấm mốc, nấm men.

Tất cả mọi nơi trên thế giới đều là môi trường sống của sinh vật như trong bụi, không khí, trên cơ thể , theo nghiên cứu thì số lượng VSV trong miệng của mỗi người bằng dân số của cả thế giới. Tuy nhiên, theo ông Thịnh, vi sinh vật được chia làm hai loại gồm: một loại có lợi và một loại có hại.

Đối với loại vi sinh vật có lợi mà chúng ta thường thấy là nấm men. Nấm men vẫn thường được người dân dùng để làm tương. Còn với vi sinh vật có hại thì rất nhiều như: nấm mốc, vi khuẩn… những loại này xâm nhập vào trong thực phẩm sẽ tồn tại trong đó và sinh ra rất nhiều độc tố, khi ăn vào có thể gây ngộ độc hoặc nặng hơn là chết người.

Ông Thịnh cũng khẳng định, hầu hết các loại thực phẩm đều bị VSV tấn công. Song, ở mức độ giới hạn cho phép thì bằng mắt thường con người không thể phát hiện được. Còn nếu vượt quá mức cho phép thì con người có thể dễ dàng nhận biết bằng thị giác và khướu giác. Ví như: Thịt lợn ôi, cá ươn, gạo, cà phê… có mùi nấm mốc. Nhìn hoặc ngửi qua là có thể biết được những thực phẩm này đã bị hư hại do vi sinh vật có hại tấn công. Theo đó, những loại thực phẩm này không nên ăn bởi chúng có rất nhiều độc tố không tốt cho sức khỏe con người.

Còn về vấn đề một số mặt hàng thủy sản như tôm bị trả về do vấn đề chỉ tiêu vi sinh thì chỉ cần luộc lên là có thể ăn được, ông Nguyễn Duy Thịnh cho rằng điều này hoàn toàn đúng nếu chỉ tiêu vi sinh ở mức giới hạn cho phép.

Theo ông Thịnh, đa phần các loại thực phẩm đều bị VSV tấn công. Chỉ có nhiều hay ít mới là vấn đề đáng lo lắng. Nếu ít mà phải những loại không nguy hiểm thì khi nấu chín chúng sẽ không có hại và ngược lại, nếu mà những loại vi sinh vật có hại, khi nấu chín, vi sinh vật trong thực phẩm sẽ chết nhưng độc tố thì vẫn còn

Vùng nông thôn thay đổi diện mạo

Nền kinh tế ở những vùng nông thôn nghèo tại TP. Đà Nẵng có diện mạo mới từ các chương trình hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển kinh tế-xã hội nông thôn miền núi (NTMN)

Thay đổi nhận thức người dân


Ông Lê Ngọc Sơn, Phó Trưởng phòng Phòng NN&PTNT huyện Hoà Vang đưa chúng tôi đến thăm gia đình anh Phạm Dũng (thôn Cẩm Toại Tây, xã Hoà Phong), nhờ 2 dự án chăn nuôi giống chất lượng cao mà gia đình anh đã “đổi đời” .

Gia đình anh Dũng triển khai dự án chăn nuôi dê kết hợp trồng cỏ và nuôi thỏ trắng New Zealand từ năm 2011. Lúc đó, anh Dũng được huyện hỗ trợ 8 con dê, 50 con thỏ giống, đồng thời được cung cấp thức ăn và giống cỏ ban đầu. Sau một năm thử nghiệm, đến năm thứ hai đàn dê và thỏ của gia đình anh Dũng bắt đầu cho thu nhập.

Anh Dũng chia sẻ: “Thịt dê và thỏ New Zealand được thị trường rất chuộng. Dê thì 8 tháng xuất bán một lần, mỗi con bán được từ 3-4 triệu đồng. Thỏ thì mỗi năm cho 2-3 lứa, mỗi lứa khoảng 30 con. Từ đầu năm đến nay gia đình tôi thu được gần 40 triệu đồng từ nuôi dê và gần 20 triệu đồng từ nuôi thỏ”.

Ông Sơn chi biết thêm: Chăn nuôi dê kết hợp trồng cỏ và nuôi thỏ trắng New Zealand là 2 dự án khoa học công nghệ (KHCN) cấp Nhà nước, có kinh phí Trung ương hỗ trợ, được triển khai tại Đà Nẵng.

Qua thời gian thực hiện, dự án đã tạo được giống mới, chất lượng cao, thích nghi với điều kiện nuôi tại Thành phố và sinh trưởng, phát triển tốt. Từ đàn dê ban đầu 160 con, qua quá trình nuôi dưỡng, đến nay đã lên khoảng 300 con. Mô hình nuôi thỏ đã cung cấp 1.000 con giống cho 20 hộ, mỗi hộ 50 con để phát triển kinh tế.

“Với một gia đình làm nông, chỉ quanh quẩn với việc trồng lúa và nuôi gà, nuôi heo, thu nhập ít ỏi… thì mô hình kinh tế mới chăn nuôi dê, thỏ chất lượng cao thực sự là đòn bẩy phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao thu nhập”, ông Sơn cho hay.

Cùng với việc phát triển kinh tế nông hộ nhờ chăn nuôi, Đà Nẵng còn thử nghiệm và nhân rộng nhiều mô hình ứng dụng Khoa học công nghệ vào cuộc sống.

Chẳng hạn, trong khuôn khổ Chương trình Chuyển giao công nghệ phát triển nông thôn miền núi, Trung tâm Tiết kiệm năng lượng và Tư vấn chuyển giao công nghệ (Sở KH&CN TP. Đà Nẵng) đã triển khai mô hình ứng dụng năng lượng mặt trời tại 24 đơn vị trong huyện Hòa Vang, như Bệnh viện đa khoa huyện, 11 trạm y tế các xã, 11 trường mầm non, Trung tâm Bảo trợ nạn nhân chất độc da cam và trẻ em bất hạnh Hòa Nhơn.

Tại Trạm y tế xã Hòa Nhơn (mỗi tháng tiếp nhận khám, chữa bệnh cho khoảng trên 200 người và có khoảng 20-30 ca sinh), chị Trần Thị Điển, Trạm trưởng Trạm y tế cho biết, với bình nước nóng 200 lít, nhiệt độ nước nóng trong những ngày nắng đạt khoảng 60-80 độ C, đã giúp cho công việc của Trạm thuận lợi hơn, nhất là trong việc tắm rửa cho trẻ sơ sinh, sát trùng dụng cụ, hỗ trợ việc tắm rửa của bệnh nhân đang điều trị.

Đà Nẵng có thời gian nắng gần như quanh năm, do vậy, việc thành công của mô hình ứng dụng năng lượng mặt trời tại huyện Hòa Vang sẽ thúc đẩy nhiều tổ chức, cá nhân sử dụng năng lượng mặt trời vào phục vụ cuộc sống và sản xuất, cắt giảm chi phí năng lượng, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường bền vững.

Đây cũng là một trong những việc làm minh chứng cho việc gắn kết các hoạt động KHCN với nhu cầu thực tế, phát triển cộng đồng và từng bước chuyển biến nhận thức và đời sống vật chất của người dân.

Lan tỏa mạnh mẽ trong khu vực NTMN

Chương trình NTMN có tính chất liên ngành, liên vùng, được Bộ KH&CN phối hợp với các địa phương thực hiện thông qua các dự án ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đào tạo, tập huấn nghiệp vụ và hoạt động thông tin, tuyên truyền nhằm thúc đẩy ứng dụng tiến bộ KHCN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội NTMN.

Ông Lê Quang Nam, Giám đốc Sở KH&CN cho biết, đối với TP. Đà Nẵng, Bộ KH&CN đã hỗ trợ thực hiện 13 dự án, trong đó có 7 dự án thuộc nhóm Trung ương quản lý và 6 dự án thuộc nhóm ủy quyền cho địa phương quản lý. Hiện, 8 dự án đã nghiệm thu và 5 dự án đang triển khai thực hiện. Hầu hết, các dự án đều hiệu quả và có sức lan tỏa mạnh mẽ trong khu vực NTMN tại TP. Đà Nẵng.

Có thể nói, thành công bước đầu của các dự án nông thôn miền núi đã tạo cơ sở hình thành và góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học cho Thành phố.

Bắt đầu từ dự án xây dựng phòng nuôi cấy mô tế bào phục vụ nhân nhanh một số giống cây đặc thù trên địa bàn Đà Nẵng với sự hỗ trợ kinh phí từ Trung ương, Thành phố đã xây dựng phòng nuôi cấy mô tế bào trực thuộc Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN, từ đó làm tiền đề để xây dựng Trung tâm Công nghệ sinh học TP. Đà Nẵng hiện nay.

Tiếp đến là những dự án, mô hình ứng dụng một số giải pháp an toàn dịch bệnh kết hợp với sử dụng dung dịch điện hoạt hóa anolit để tăng cường vệ sinh thú y; dự án xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất thức ăn bổ sung cho tôm, cá và chế phẩm vi sinh xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản; dự án xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ điện hoạt hóa để làm vệ sinh, khử trùng và khử mùi nhà xưởng, dụng cụ và sản phẩm thịt...

>>>Xem thêm:nuôi cấy vi sinh xử lý nước thải

Các dự án này đã hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh phục vụ nông nghiệp, nông thôn và người dân trên địa bàn Thành phố sản xuất các dung dịch khử trùng phục vụ phòng bệnh cho gia súc, gia cầm, các dung dịch vệ sinh nhà xưởng, qua đó cải thiện đáng kể vấn đề môi trường.

Các dự án xây dựng mô hình nuôi bò lai, trồng tre lấy măng tại xã miền núi Hòa Ninh, mô hình trồng thương phẩm các loài hoa có giá trị cao, phát triển chăn nuôi dê thâm canh, sản xuất hàng hóa nấm ăn và nấm dược liệu, nhân giống và sản xuất lan hồ điệp, mô hình chăn nuôi thỏ trắng New Zealand… đã góp phần chuyển đối cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với định hướng của Thành phố, phát triển nông nghiệp đô thị và tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích.

Bên cạnh những kết quả đạt được, thông qua các mô hình trồng trọt, chăn nuôi, các dự án từ chương trình nông thôn miền núi đã đào tạo kỹ thuật trực tiếp cho các cán bộ thuộc cơ quan chủ trì dự án, nâng cao trình độ kỹ thuật cho cán bộ địa phương và người dân về sản xuất nông nghiệp.

Tại Đà Nẵng, qua 13 dự án NTMN đã đào tạo 119 cán bộ kỹ thuật nắm vững quy trình công nghệ và tập huấn cho 3.775 lượt nông dân của địa phương về các kỹ thật chăn nuôi, trồng trọt tiên tiến.

Ông Lê Quang Nam đánh giá, các dự án trong chương trình NTMN đã chuyển giao ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Thành phố, qua đó nâng cao năng suất, chất lượng nông sản của các địa phương. Thông qua các dự án đã giúp nâng cao trình độ sản xuất của người nông dân, xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho cộng đồng dân cư ở nông thôn.

Với hiệu quả thiết thực đối với các địa phương như vậy, Sở KH&CN TP. Đà Nẵng đã đề xuất lên Bộ KH&CN tiếp tục đề xuất Chính phủ phê duyệt tiếp giai đoạn 3 của chương trình và quan tâm hỗ trợ Thành phố triển khai các dự án trong khuôn khổ của chương trình.

Đồng thời tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho nguồn nhân lực của các tổ chức KHCN, đầu tư nâng cao năng lực cho các đơn vị Trung tâm Tiết kiệm năng lượng và Tư vấn chuyển giao công nghệ, Trung tâm Công nghệ sinh học, và tăng cường liên kết, phối hợp giữa Sở KH&CN với Ủy ban nhân dân các huyện trong công tác quản lý và triển khai hoạt động ứng dụng KHCN tại địa phương.

Áp dụng vi sinh để giảm thiểu ô nhiễm môi trường


Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bắc Kạn đã phối hợp cùng Viện Môi trường Nông nghiệp-Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam thực hiện dự án xây dựng mô hình xử lý chất thải từ quá trình chế biến tinh bột dong riềng làm thức ăn gia súc và phân bón hữu cơ tại xã Côn Minh, huyện Na Rì (Bắc Kạn) nhằm giảm ô nhiễm môi trường từ các cơ sở chế biến dong riềng.




>> xem thêm nuôi cấy vi sinh xử lý nước thải



Dự án nhằm xây dựng các mô hình xử lý nguồn nước bị ô nhiễm trong quá trình chế biến dong riềng đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường, mô hình sản xuất và sử dụng phân hữu cơ vi sinh từ chất thải của quá trình chế biến tinh bột dong riềng để làm phân bón cho cây trồng, mô hình chế biến và sử dụng bã dong riềng để làm thức ăn bổ sung cho chăn nuôi.


Qua hai năm thực hiện, dự án đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận. Dự án đã điều tra hiện trạng sản xuất nông nghiệp cũng như sản xuất dong riềng tại thôn Bản Lài, xã Côn Minh, huyện Na Rì. Xây dựng được các chuyên đề, gồm tổng quan về các giải pháp sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý làm phân bón hữu cơ vi sinh và dùng làm thức ăn cho chăn nuôi, tổng quan về các giải pháp sử dụng công nghệ sinh hoá dùng để xử lý nước thải của các cơ sở sản xuất tinh bột dong riềng trong nước và trên thế giới, chuyên đề đánh giá kết quả xử lý bã thải từ quá trình sản xuất tinh bột dong riềng theo hướng thân thiện với môi trường.


Các các quy trình để các cơ sở sản xuất chế biến dong riềng áp dụng như: về chế biến bã dong riềng làm thức ăn chăn nuôi; chế biến bã dong riềng thành phân bón hữu cơ vi sinh; xử lý nước thải từ các cơ sở sản xuất dong riềng quy mô nông hộ gia đình cũng đã được hoàn thiện.



Dự án đã xây dựng 3 mô hình gồm xử lý bã thải dong riềng làm thức ăn cho chăn nuôi, đã chế biến được 2 tấn thức ăn phục vụ chăn nuôi từ bã dong riềng bằng công nghệ chế phẩm vi sinh và công nghệ ủ chua; xử lý bã dong riềng làm phân bón vi sinh với số lượng 10 tấn phân đã bón thử nghiệm cây lúa nước vụ mùa năm 2012 và vụ xuân năm 2013; xử lý nước thải công suất 90 m3/ngày đảm bảo vệ sinh môi trường khi thải ra tự nhiên. Nhìn chung các mô hình phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh, giảm được chi phí đầu tư cho các cơ sở chế biến dong riềng.



Chủ nhiệm Hợp tác xã Miến dong Côn Minh, huyện Na Rì – ông Nông Văn Chính chia sẻ, trước đây, việc đảm bảo nước thải ra ruộng, ra suối của các hộ sản xuất miến dong còn khó khăn do chưa được hướng dẫn. Từ khi thực hiện dự án này rất thuận lợi, nước thải ra môi trường của các cơ sở khá trong, theo hướng dẫn là đảm bảo. Hợp tác xã đã xây dựng 3 bể lắng để lắng các chất cạn bã, độc hại, làm cho nước trong sau mới thải ra môi trường, còn bã thải làm phân bón rất tốt cho cây trồng.



Cùng với việc xây dựng các mô hình, việc tổ chức tập huấn, hướng dẫn, chuyển giao công nghệ cho 150 lượt người dân về tác hại của ô nhiễm môi trường, các bước chế biến bã dong riềng, kỹ thuật xử lý nước thải, xây dựng các bể lọc...cũng được chú trọng.Người dân sau khi được tập huấn đã nâng cao nhận thức, đồng thời ứng dụng các công nghệ vào sản xuất và chế biến góp phần tăng hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường.



Ông Lê Văn Thế, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bắc Kạn cho biết thời gian tới, đơn vị tiếp tục mở rộng dự án xây dựng hệ thống xử lý nước thải trong sản xuất và chế biến tinh bột dong riềng nhằm đảm bảo môi trường và giúp người dân tận dụng được bã củ dong thải ra để làm phân bón và thức ăn chăn nuôi. Đồng thời nhân rộng mô hình xử lý nước, chất thải ra các vùng khác trong tỉnh.



Dong riềng là cây dễ trồng, thích nghi với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, tập quán canh tác của người dân vùng cao nên những năm gần đây tỉnh Bắc Kạn đã đẩy mạnh việc mở rộng diện tích và sản xuất, chế biến sản phẩm củ dong riềng.



Hiện nay, trên địa bàn toàn tỉnh đã có hơn 100 doanh nghiệp, hợp tác xã và các hộ gia đình sản xuất, chế biến củ dong riềng tạo ra các sản phẩm hàng hóa nâng cao giá trị kinh tế. Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất, chế biến củ dong riềng mới chỉ chú trọng vào năng suất, lợi nhuận về kinh tế mà chưa chú trọng công tác bảo vệ môi trường.

Tỉnh Đồng Nai tích cực phòng chóng khô hạn

Mùa mưa năm nay sẽ kết thúc vào đầu tháng 11 và đến thời điểm giữa tháng 11/2015, thời tiết tại Đồng Nai sẽ chính thức vào mùa khô và lượng mưa sẽ giảm hẳn là thông tin được  Đài Khí tượng thủy văn Đồng Nai cho biết.



Theo dự báo, do hiện tượng El Nino nên thời tiết trong mùa khô năm nay khá khắc nghiệt. Cụ thể trên địa bàn tỉnh sẽ có nhiều ngày nắng nóng và lượng mưa trái mùa rất ít khả năng sẽ xảy ra khô hạn và thiếu nước ở những vùng cao.


Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - ông Phạm Minh Đạo cho biết, Sở đã triển khai kế hoạch giai đoạn 2016-2020 gồm nhiều nhiều giải pháp nhằm đối phó với tình trạng khô hạn trên. Bên cạnh đó tỉnh sẽ đầu tư trên 754 tỷ đồng cho công tác thủy lợi; trong đó, thi công xây dựng mới 38 công trình tưới tiêu phục vụ sản xuất với diện tích được cấp nước tăng thêm gần 16.000 ha; cấp nước sinh hoạt, công nghiệp tăng thêm trên 51.000 m3/ngày…


Kèm theo đó, áp dụng biện pháp tưới nước tiết kiệm; căn cứ điều kiện thực tế của từng vùng, địa phương xây dựng kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân; xây dựng kế hoạch tưới và lịch phân phối nước cụ thể ở các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh; xây dựng kế hoạch đảm bảo nước cho chăn nuôi; công tác phòng chống cháy rừng…


Ủy ban nhân dân tỉnh còn yêu cầu các Sở, ngành và địa phương cần xây dựng kế hoạch chi tiết, tập trung vào các nội dung: hạn, chống hạn; ngập mặn và chống ngập mặn; nguy cơ cháy rừng và chống cháy rừng…


Về kế hoạch cung cấp nước trong mùa cao điểm khô hạn, cần ưu tiên theo thứ tự: nước sinh hoạt, chăn nuôi, rồi đến cây trồng và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước.

Nếu không xử lý tốt chất thải chăn nuôi sẽ trở thành thảm họa


Với con số hơn 37 triệu con gia súc và tổng đàn 3114,7 triệu con gia cầm thì nước thải ra từ chăn nuôi là 1 con số khổng lồ 84,5 triệu tấn/năm. Giả sử tính theo đầu người riêng biệt thì chỉ tính riêng chất thải chăn nuôi theo đầu người thì xấp 1 người 1 tấn/người/năm.





Bảng ứớc tính khối lượng chất thải rắn chăn nuôi phát sinh.



Một thảm họa mới không cần phải do khai thác và đào xới như công nghiệp khai khoáng tạo ra tại các bãi mỏ, mà bãi chất thải do ngành chăn nuôi tạo ra lại nằm ngay trong chính “lòng dân”, ngày ngày sản sinh từ từ, đều đều và hệ lụy cũng khôn lườngkhông kém gì công nghiệp khai khoáng.


Nếu như người dân đô thị luôn phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm tiếng ồn, rác thải sinh hoạt, khói bụi... thì người dân ở nông thôn lại phải sống chung với tình trạng ô nhiễm môi trường do thuốc trừ sâu, rác thải nông nghiệp và đặc biệt là chất thải phát sinh từ chăn nuôi.


Chất thải trong chăn nuôi bao gồm 3 loại: Chất thải rắn (phân, thức ăn, xác gia súc, gia cầm chết)- Chất thải lỏng (nước tiểu, nước rửa chuồng, nước dùng để tắm gia súc)- Chất thải khí (CO2, NH3...) đều là những loại khí chính gây ra ô nhiễm môi trường. Cũng theo thống kê hiện nay, ngoài chăn nuôi hộ gia đình thì chăn nuôi theo mô hình trang trại ngày càng phát triển (có khoảng 23.500 trang trại chăn nuôi tập trung), các trang trại này chủ yếu ở quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu nằm xem kẽ trong các khu dân cư không có công trình xử lý chất thải hoặc có nhưng chưa đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật, chính vì thế điều này tăng nguy cơô nhiễm môi trường và phát tán dịch bệnh cho gia súc và con người.


Theo báo cáo thống kê đến nay, chỉ khoảng 40-50% lượng chất thải rắn trong chăn nuôi được xử lý, số còn lại bị thải trực tiếp thẳng ra cống, ao hồ, kênh rạch. Lý giải cho điều này là do một số hộ gia đình chỉ cần nuôi với số lượng nhỏ, lẻ từ 5-10 con heo không thường xuyên vệ sinh chuồng trại hàng ngày, xử lý phân, rác không hợp lý thì tất cả những hộ xung quanh đều phải chịu hậu quả, chất thải vẫn làm ảnh hưởng đến trực tiếp đến sức khỏe, sinh hoạt của các gia đình, cũng như cảnh quan đường làng ngõ xóm.


Điển hình như tại thôn Trà Lâm (Thuận Thành, Bắc Ninh) người dân luôn phải sống trong cảnh khó chịu vì mùi phân lợn. Nổi tiếng là làng nghề làm đậu phụ, kết hợp với chăn nuôi (gà và lợn), Trà Lâm nhờ vào đó mà phát triển đời sống kinh tế hơn song đi đôi với phát triển kinh tế thì Trà Lâm cũng đối mặt với hệ lụy ô nhiễm đang ngày một trầm trọng. Hộ nhiều từ 50- 70 con chăn nuôi trực tiếp tại chuồng trại trong hộ gia đình, hàng ngày số lượng chất thải rắn (phân, nước rửa chuồng..) được xả thẳng ra các cống lộ thiên là vô số kể với 80% số hộ chăn nuôi lợn với số lượng trung bình ít từ 10- 20 con/hộ, hoặc có . Trong khi đó, hệ thống cống rãnh cũng không được khơi thông liên tục, dẫn đến tình trạng nước cống, nước mưa, phân lợn ngập ngụa lên tới nửa ngõ những ngày mưa là chuyện bình thường. Đặc biệt vào các mùa hiên nhiệt, trở giời thì ruồi, muỗi từ dưới cống xônglên nhiều như “quân nguyên”. Chưa kể, quanh năm người dân nơi đây luôn phải sống chung với mùi hôi nồng “truyền thống”. Mấy tháng trở về đây, kể từ sau dự án xây dựng đường nông thôn mới thì dân tình được sống yên ổn hơn, tuy nhiên đó chỉ là “khuất mắt trông coi” khi các đường cống lộ thiên bị bao trùm lên bằng các đường bê- tông hóa đường ngõ xóm, songcác chất thải vẫn xả ra cống rồi đổ trực tiếp vào ao, hồ trong làng. Chẳng thế mà ao hồ trong làng trước kia vốn trong xanh, nước có thể mang tắm, giặt hoặc về làm đậu được nay đã biến thành những vũng ao tù nước đọng, đen xì, khô khốc hoặc xình lầy bỏ hoang cho bèo mọc.





Hệ thống cống lộ thiên luôn được “bồi tụ” đầy ắp chất thải từ chăn nuôi.


Cũng tại Thái Nguyên, theo thống kê của tỉnh năm 2013, trên địa bàn tỉnh có hơn 670 trang trại, gia trại chăn nuôi; trong đó, có 274 trang trại, gia trại chăn nuôi lợn, hơn 350 trang trại gia trại chăn nuôi gà, còn lại là các trang trại, gia trại chăn nuôi trâu, ngựa, dê, chồn, nhím... Khoảng 90% các trang trại, gia trại chăn nuôi có quy mô chăn nuôi dưới 1000 con/năm.Qua kiểm tra thực tế, phần lớn các trang trại, gia trại nằm xen kẽ trong các khu dân cư, có quỹ đất nhỏ hẹp không đủ diện tích xây dựng các công trình bảo vệ môi trường đảm bảo xử lý chất thải, nước thải đạt tiêu chuẩn chuẩn cho phép, không đảm bảo khoảng cách vệ sinh đến khu dân cư gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt của người dân xung quanh.


Theo đánh giá của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên, trong hoạt động chăn nuôi, chất thải trong chăn nuôi lợn là nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất. Chất thải của các trang trại, gia trại nuôi lợn chủ yếu được xử lý bằng hệ thống biogas song biện pháp này chỉ giải quyết được vấn đề thu hồi khí sinh học tận thu làm nhiên liệu còn mức độ giảm thiểu ô nhiễm không đáng kể, không giải quyết được tình trạng ô nhiễm môi trường đất, nước và mùi hôi thối.


Đó chỉ là hai trong nhiều địa phương điển hình có ngành chăn nuôi phát triển song cũng đi đôi với ô nhiễm. Vì thế thiết nghĩ, sự phát triển của chăn nuôi cũng phải đi liền với bảo vệ môi trường xung quanh. Và người dân đóng hai vai, vừa là người “gieo nhân” xong cũng chính là người “gặt quả” vì vậy những động thái tác động lên môi trường cũng là “mũi dùi” chĩa thẳng vào môi trường sống của người dân.

Nếu không xử lý tốt, chất thải chăn nuôi sẽ thành thảm họa


Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam có khoảng 3114,7 triệu con gia cầm và hơn 37 triệu con gia súc, mỗi năm khối lượng chất thải từ chăn nuôi là  khoảng 84,5 triệu tấn/năm. Nếu làm phép chia đều theo đầu người chỉ tính riêng chất thải trong chăn nuôi, số lượng chất thải là xấp xỉ 1 tấn/người/năm.


Không cần phải khai thác và đào xới như công nghiệp khai khoáng tạo ra tại các bãi mỏ, mà “bãi chiến trường” do ngành chăn nuôi tạo ra lại nằm ngay trong chính “lòng dân”, ngày ngày sản sinh từ từ, đều đều và hệ lụy cũng khôn lường không kém gì công nghiệp khai khoáng.





Nếu như người dân thành thị phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm tiếng ồn, rác thải sinh hoạt, khói bụi... thì người dân ở nông thôn lại phải sống chung với ô nhiễm môi trường do thuốc trừ sâu, rác thải nông nghiệp và đặc biệt là chất thải phát sinh từ chăn nuôi.


Chăn nuôi bao gồm 3 loại chất thải: Chất thải rắn (phân, thức ăn, xác gia súc, gia cầm chết)- Chất thải lỏng (nước tiểu, nước rửa chuồng, nước dùng để tắm gia súc)- Chất thải khí (CO2, NH3...) đều là những loại khí chính gây ra ô nhiễm môi trường. Ngoài chăn nuôi hộ gia đình thì chăn nuôi theo mô hình trang trại ngày càng phát triển (có khoảng 23.500 trang trại chăn nuôi tập trung), các trang trại này chủ yếu ở quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu nằm xem kẽ trong các khu dân cư không có công trình xử lý chất thải hoặc có nhưng chưa đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật, chính vì thế điều này tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường và phát tán dịch bệnh cho gia súc và con người.


Hiện tại, chỉ khoảng 40-50% lượng chất thải rắn trong chăn nuôi được xử lý, số còn lại bị thải trực tiếp thẳng ra cống, ao hồ, kênh rạch. Lý giải cho điều này là do một số hộ gia đình chỉ cần nuôi với số lượng nhỏ, lẻ từ 5-10 con heo không thường xuyên vệ sinh chuồng trại hàng ngày, xử lý phân, rác không hợp lý thì tất cả những hộ xung quanh đều phải chịu hậu quả, chất thải vẫn làm ảnh hưởng đến trực tiếp đến sức khỏe, sinh hoạt của các gia đình, cũng như cảnh quan đường làng ngõ xóm.


Điển hình như tại thôn Trà Lâm (Thuận Thành, Bắc Ninh) người dân luôn phải sống trong cảnh khó chịu vì mùi phân lợn. Nổi tiếng là làng nghề làm đậu phụ, kết hợp với chăn nuôi (gà và lợn), Trà Lâm nhờ vào đó mà phát triển đời sống kinh tế hơn song đi đôi với phát triển kinh tế thì Trà Lâm cũng đối mặt với hệ lụy ô nhiễm đang ngày một trầm trọng. Với 80% số hộ chăn nuôi lợn với số lượng trung bình ít từ 10- 20 con/hộ, hoặc có hộ nhiều từ 50- 70 con chăn nuôi trực tiếp tại chuồng trại trong hộ gia đình, hàng ngày số lượng chất thải rắn (phân, nước rửa chuồng..) được xả thẳng ra các cống lộ thiên là vô số kể. Trong khi đó, hệ thống cống rãnh cũng không được khơi thông liên tục, dẫn đến tình trạng nước cống, nước mưa, phân lợn ngập ngụa lên tới nửa ngõ những ngày mưa là chuyện bình thường. Đặc biệt vào các mùa hiên nhiệt, trở giời thì ruồi, muỗi từ dưới cống xông lên nhiều như “quân nguyên”. Chưa kể, quanh năm người dân nơi đây luôn phải sống chung với mùi hôi nồng “truyền thống”. Mấy tháng trở về đây, kể từ sau dự án xây dựng đường nông thôn mới thì dân tình được sống yên ổn hơn, tuy nhiên đó chỉ là “khuất mắt trông coi” khi các đường cống lộ thiên bị bao trùm lên bằng các đường bê- tông hóa đường ngõ xóm, nhưng các chất thải vẫn xả ra cống rồi đổ trực tiếp vào ao, hồ trong làng. Chẳng thế mà ao hồ trong làng trước kia vốn trong xanh, nước có thể mang tắm, giặt hoặc về làm đậu được nay đã biến thành những vũng ao tù nước đọng, đen xì, khô khốc hoặc xình lầy bỏ hoang cho bèo mọc.


Cũng tại Thái Nguyên, theo thống kê của tỉnh năm 2013, trên địa bàn tỉnh có hơn 670 trang trại, gia trại chăn nuôi; trong đó, có 274 trang trại, gia trại chăn nuôi lợn, hơn 350 trang trại gia trại chăn nuôi gà, còn lại là các trang trại, gia trại chăn nuôi trâu, ngựa, dê, chồn, nhím... Khoảng 90% các trang trại, gia trại chăn nuôi có quy mô chăn nuôi dưới 1000 con/năm.Qua kiểm tra thực tế, phần lớn các trang trại, gia trại nằm xen kẽ trong các khu dân cư, có quỹ đất nhỏ hẹp không đủ diện tích xây dựng các công trình bảo vệ môi trường đảm bảo xử lý chất thải, nước thải đạt tiêu chuẩn chuẩn cho phép, không đảm bảo khoảng cách vệ sinh đến khu dân cư gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt của người dân xung quanh.


Theo đánh giá của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên, trong hoạt động chăn nuôi, chất thải trong chăn nuôi lợn là nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất. Chất thải của các trang trại, gia trại nuôi lợn chủ yếu được xử lý bằng hệ thống biogas song biện pháp này chỉ giải quyết được vấn đề thu hồi khí sinh học tận thu làm nhiên liệu còn mức độ giảm thiểu ô nhiễm không đáng kể, không giải quyết được tình trạng ô nhiễm môi trường đất, nước và mùi hôi thối.


Đó chỉ là hai trong nhiều địa phương điển hình có ngành chăn nuôi phát triển song cũng đi đôi với ô nhiễm. Vì thế thiết nghĩ, sự phát triển của chăn nuôi cũng phải đi liền với bảo vệ môi trường xung quanh. Và người dân đóng hai vai, vừa là người “gieo nhân” xong cũng chính là người “gặt quả” vì vậy những động thái tác động lên môi trường cũng là “mũi dùi” chĩa thẳng vào môi trường sống của người dân.

Nâng cao công tác bảo vệ môi trường ở Quảng Trị



Hội nghị báo cáo hiện trạng môi trường của tỉnh giai đoạn 2011-2015 được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị tổ chức vào ngày 23/10 vừa qua. Hội nghị nhằm tăng cường và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về lĩnh vực môi trường, góp phần nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và người dân về bảo vệ môi trường.



Tỉnh Quảng Bình đưa ra nhiều giải pháp cụ thể giải quyết những vấn đề nóng về môi trường trên địa bàn nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động bảo vệ môi trường, trong thời gian tới. Theo đó, tỉnh tổ chức thực hiện tốt các quy hoạch, kế hoạch về quản lý tài nguyên môi trường đã được ban hành; tuyên truyền phổ biến nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường. Tỉnh tăng cường công tác thanh, kiểm tra và giám sát; kiểm soát chặt chẽ các dự án đầu tư, trong đó ưu tiên chọn các dự án sạch, tiến tới hạn chế và không cấp giấy phép đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng đối với các loại hình công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nguồn lực đầu tư cho bảo vệ môi trường sẽ được tăng cường. Cùng với đó, tỉnh xây dựng các quy định bảo vệ môi trường chặt chẽ trong các khu công nghiệp, kinh tế, làng nghề đối với các hoạt động du lịch, thương mại…



Việc thực hiện quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường tại Quảng Trị được tăng cường, hoàn thiện và bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật trong giai đoạn 2010-2015. Hoạt động bảo vệ môi trường của các tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân ngày càng đi vào nề nếp. Các điểm nóng về môi trường từng bước được giải quyết có hiệu quả, môi trường nông thôn có bước chuyển biến đáng khích lệ. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã tạo ra những áp lực nhất định đối với môi trường. Tình trạng ô nhiễm môi trường tại các khu cụm công nghiệp, làng nghề diễn ra đáng lo ngại. Lượng nước thải công nghiệp toàn tỉnh tăng từ 1,9 triệu m3 (năm 2010) lên 2,9 m3 (năm 2012) và giảm xuống 1,9 triệu m3 (năm 2014). Lượng nước thải sinh hoạt đổ vào các lưu vực tăng từ 17,7 triệu m3 (năm 2010) lên 18,4 triệu m3 (năm 2014).




Tỉnh Quảng Bình hiện có 13 đô thị với tổng lượng chất thải rắn phát sinh khoảng 115,5 tấn/ngày. Đặc biệt, 43 điểm khu chợ, siêu thị khối lượng chất thải lớn với khoảng 42,59 tấn/ngày. Hiện nay, tất cả các đô thị trong tỉnh đều chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Nhiều bãi chôn lấp chất thải rắn không hợp vệ sinh đang hoạt động, một số bãi rác vận hành không hiệu quả, gây áp lực lớn lên môi trường nước mặt. Theo thống kê, lượng nước thải nông nghiệp, làng nghề toàn tỉnh tăng từ 278,4 triệu m3 (năm 2010) lên 292 triệu m3 (năm 2014). Các khu vực tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật, bãi rác, chợ vẫn chưa được giải quyết. Tỷ lệ các cơ sở gây ô nhiễm môi trường hoàn thành xử lý ô nhiễm vẫn còn thấp. Chất thải rắn chưa được thu gom và xử lý triệt để. Công tác quản lý môi trường vẫn còn những bất cập và khó khăn do chồng chéo…

Báo động ô nhiễm môi trường đất ở khu công nghiệp

Nguồn đất bị ô nhiễm kim loại nặng tại các khu vực phụ cận bãi chôn lấp chất thải rắn và một số khu vực tiếp nhận nguồn thải của khu công nghiệp trên địa bàn Đồng Nai .




Đợt quan trắc chất lượng môi trường đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai vừa được trung tâm quan trắc và kỹ thuật môi trường hoàn tất . Chất lượng môi trường năm 2015 không thấy biến động nhiều so với năm 2014 theo báo cáo kết quả tổng quan , tuy nhiên tại một số khu vực tiếp nhận nguồn thải của khu công nghiệp và khu vực phụ cận các bãi chôn lấp chất thải rắn trên địa bàn Đồng Nai, nguồn đất bị ô nhiễm kim loại nặng.


Trung tâm Quan trắc và Kỹ thuật Môi trường Đồng Nai đã tiến hành lấy các mẫu đất ở 3 tầng tương ứng với các độ sâu 30cm, 60cm và 90cm để đánh giá chất lượng nguồn đất. Kết quả quan trắc cho thấy, khu vực đất tại vị trí tiếp nhận nguồn thải của khu công nghiệp Biên Hòa 1 (thành phố Biên Hòa) hàm lượng chì (Pb) trong đất vượt từ 3,3 đến trên 4 lần so với tiêu chuẩn cho phép; hàm lượng kẽm (Zn) vượt từ 3,9 đến 4,9 lần so với quy chuẩn cho phép. Điều đáng nói, các chỉ số kim loại nặng trên đều vượt ngưỡng cho phép ở cả 3 tầng thu mẫu. Ngoài ra, hàm lượng asen (As) tại vị trí trên cũng vượt ngưỡng cho phép nhưng ở mức nhẹ. Tại vị trí tiếp nhận nguồn thải của khu công nghiệp Hố Nai (huyện Trảng Bom), hàm lượng chì (Zn) vượt tiêu chuẩn cho phép gần 2 lần. Ngoài ra, tại khu vực nguồn đất tại vị trí tiếp nhận nguồn thải của khu công nghiệp Sông Mây (huyện Trảng Bom) và khu công nghiệp Nhơn Trạch 5 (huyện Nhơn Trạch) hàm lượng Zn cũng vượt tiêu chuẩn cho phép ở cả 3 tầng lấy mẫu.

Kết quả quan trắc cũng cho thấy, tại những vùng phụ cận các bãi chôn lấp chất thải rắn ở phường Trảng Dài (thành phố Biên Hòa), bãi chôn lấp xã Vĩnh Tân (huyện Vĩnh Cửu), bãi chôn lấp xã Túc Trưng (huyện Định Quán) và bãi chôn lấp xã Quang Trung (huyện Thống Nhất) phát hiện hàm lượng đồng (Cu) cao hơn mức cho phép từ 1,3 đến 4,5 lần ở cả 3 tầng lấy mẫu. Khu vực đất tại bãi chôn lấp chất thải rắn ấp Tân Cang, xã Phước Tân (thành phố Biên Hòa), các chỉ tiêu kim loại nặng như Cu và Zn cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến 2 lần. Riêng tại vùng phụ cận bãi rác Quang Trung, các chỉ số kim loại nặng như niken và crom trong đất có hàm lượng khá cao so với tiêu chuẩn cho phép.

Trong khi đó, qua quan trắc đất nền, đất nông nghiệp và đất dân sinh cho thấy chất lượng nguồn đất trên địa bàn Đồng Nai đạt yêu cầu với mục đích sử dụng đất, chưa thấy dấu hiệu suy thoái ở những vùng này. Theo đó, tại 27 vị trí lấy mẫu đất ở cả 3 tầng, cho thấy các thông số về độ Ph, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, độ nhiễm phèn và kim loại nặng trong đất đều nằm trong ngưỡng cho phép.

Đối với những khu vực đất công nghiệp có các chỉ tiêu kim loại nặng vượt quy chuẩn cho phép, Trung tâm Quan trắc và Kỹ thuật Môi trường Đồng Nai khuyến cáo cần có các biện pháp khắc phục kiểm soát, xử lý các chỉ số kim loại nặng tại các nguồn thải, nhằm hạn chế gây ô nhiễm cho nguồn đất.

Người dân khốn đốn vì nước tưới ô nhiễm




Nguồn nước tại hồ chứa nước thôn Phát Chi đã “đổi màu”, toàn bộ mặt hồ chuyển sang màu xanh rêu, mùi tanh xộc thẳng vào mũi rất khó chịu. Đây là nguồn nước tưới chủ yếu cho hơn 140ha chè Olong, rau, hoa… công nghệ cao của hàng chục nông hộ quanh vùng; và trong tương lai sẽ được sử dụng làm nguồn nước sinh hoạt cho nhân dân hai xã vùng ven của Đà Lạt là Trạm Hành và Xuân Trường.




Nguyên nhân khiến nước hồ “đổi màu” là do nhà máy sản xuất rượu vang của Công ty CP Lâm Đồng xả nước thải ra môi trường là thông tin được người dân ở nơi đây cung cấp. Nhà máy thường xả nước thải vào những ngày mưa, hoặc đêm khuya, nước thải theo suối chảy xuống hồ làm nước bị ô nhiễm nặng.



Nước hồ Phát Chi chuyển sang màu xanh rợn do bị ô nhiễm



Ngụ ở thôn Phát Chi, gia đình ông Nguyễn Hữu Dương có hơn 1.500m2 đất trồng hoa đồng tiền trong nhà kính gần hồ Phát Chi: “Vụ hoa này không ra gì, hoa bị nấm lạ hàng loạt, mua thuốc về xịt vẫn không hết mà lại còn nặng thêm. Chúng tôi hỏi cơ quan chức năng nhưng họ chưa biết. Tôi chắc chắn là do nguồn nước tưới từ hồ bị ô nhiễm”. Ông Dương cũng cho biết, hiện tượng vườn hoa của gia đình bị nấm bệnh xảy ra từ đầu năm 2015, bùng phát mạnh khoảng ba tháng nay, nhất là sau khi hồ thủy lợi Phát Chi bắt đầu tích nước và nhà máy sản xuất của Công ty CP Thực phẩm Lâm Đồng xả thải vào hồ.





Hộ ông Mã Đức Bổn (ngụ xã Trạm Hành), nhà có 7.000m2 trồng atisô sát cạnh hồ Phát Chi, cũng chung tình trạng bị nấm bệnh, làm nhiều diện tích atiso bị chết cây và lá chuyển vàng do tưới nước ô nhiễm của hồ. Ông Bổn cho biết, thời gian gần đây hồ bị ô nhiễm nặng nhưng không còn nguồn nước nào khác nên bà con vẫn phải sử dụng.





Ông Lê Huy Ban - trưởng thôn Phát Chi, khẳng định: “Việc phản ánh của người dân là đúng sự thật. Không những nguồn nước hồ ô nhiễm nghiêm trọng mà còn bốc mùi hôi thối. Đề nghị cơ quan chức năng sớm giải quyết để nông dân có nguồn nước tưới phục vụ sản xuất, bảo đảm sức khỏe cộng đồng dân cư gần khu vực nhà máy của Công ty CP Thực phẩm Lâm Đồng”.







Còn tại biên bản “Ghi nhận thông tin liên quan đến việc hồ Phát Chi bị ô nhiễm nặng” ngày 21/10 của Trung tâm Quản lý Đầu tư và Khai thác công trình thủy lợi Đà Lạt, nhiều hộ dân thôn Phát Chi, như bà Nguyễn Thị Lý, ông Nguyễn Hữu Hưng, Trần Dũng… cũng đều có chung phản ánh, khi nhà máy của Công ty CP Thực phẩm Lâm Đồng xả thải vào cống phía thượng lưu hồ Phát Chi, nước có màu đen và mùi hôi nồng nặc, ảnh hưởng đến nguồn nước tưới tiêu và sức khỏe người dân.







Không chỉ vậy, tại kỳ họp thứ 14, Hội đồng nhân dân tỉnh Lâm Đồng khóa 8 vừa qua, cử tri xã Trạm Hành cũng đã phản ánh, nhà máy sản xuất của Công ty CP Thực phẩm Lâm Đồng thường xuyên xả nước thải ra môi trường, gây ô nhiễm không khí trong vùng, nhưng vẫn chưa khắc phục. Theo giải trình của cơ quan chức năng, nhà máy sản xuất rượu vang Đà Lạt của Công ty CP Thực phẩm Lâm Đồng, nằm trong cụm công nghiệp Phát Chi, hoạt động từ năm 2012, đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, được Sở TN&MT Lâm Đồng cấp giấy xác nhận. Năm 2014, các ngành liên quan đã tiến hành thanh tra và kết luận, công ty thực hiện đầy đủ các biện pháp bảo vệ môi trường theo quy định. Tuy nhiên, qua phản ánh của người dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng sẽ chỉ đạo cơ quan chức năng kiểm tra, làm rõ.







Trong khi đó, đại diện Công ty CP Thực phẩm Lâm Đồng cho rằng, hàng quý, Sở TN&MT đều lấy mẫu kiểm tra, khẳng định nước thải tại nhà máy của công ty đạt các thông số theo quy định, sau khi đã qua xử lý. Công ty cũng được cấp lại giấy phép “xả nước thải vào nguồn nước” cách đây hai tuần, với dung tích xả 300m3/ngày đêm, nhưng mới chỉ xả khoảng 120-150m3/ngày đêm.







Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Trạm Hành Nguyễn Hữu Âu cho biết, hồ nước này mới tích nước được hơn 1 năm nay, nhưng đã nhiều lần người dân phản ánh nguồn nước bị ô nhiễm khiến mùi hôi làm ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của bà con. Cách đây một tuần, người dân lại đến UBND xã phản ánh nhà máy rượu của Công ty CP Thực phẩm xả nước thải đen ngòm, bốc mùi hôi thối chảy vào hồ nhưng chưa có chứng cứ xác thực nên chưa thể xử lý. Dù vậy, ngày 21/10, Trung tâm Quản lý đầu tư và khai thác công trình thủy lợi TP Đà Lạt (đơn vị chủ quản hồ Phát Chi), cùng cán bộ xã Trạm Hành cũng đã tiến hành kiểm tra hiện trường, lập biên bản ghi nhận phản ánh của người dân xung quanh việc hồ bị ô nhiễm để báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố chỉ đạo các cơ quan chức năng làm rõ nguyên nhân gây ô nhiễm. Tuy nhiên, ông Âu cũng xác nhận, tại khu công nghiệp Phát Chi hiện mới có Công ty CP Thực phẩm Lâm Đồng hoạt động và có giấy phép xả nước thải, còn một đơn vị khác chuyên trồng hoa tươi cao cấp, chỉ sử dụng nước hồ để tưới chứ không xả thải.







Liên quan đến vụ việc, chiều cùng ngày, Giám đốc Trung tâm Quản lý đầu tư và Khai thác công trình thủy lợi Đà Lạt Nguyễn Minh Sơn cho biết, vừa có văn bản báo cáo Ủy ban nhân dân TP Đà Lạt và các cơ quan chức năng của tỉnh về tình trạng xuất hiện tảo lam, bốc mùi hôi thối và ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng tại hồ thủy lợi Phát Chi để sớm tìm ra nguyên nhân và có biện pháp ngăn chặn.

Nạn "đất tặc" lộng hành ở Vĩnh Lộc



Nhiều người dân xã Vĩnh Phúc (huyện Vĩnh Lộc – Thanh Hóa) bức xúc vì nạn "đất tặc", trong khi đó chính quyền địa phương lại đùn đẩy trách nhiệm, xử lý thiếu quyết liệt, .



Nhiều người dân phản ánh, tại khu vực đồi Khe Nước trên diện tích đất rừng (giáp ranh giữa xã Vĩnh Phúc với thôn 6, xã Vĩnh Hưng) được giao cho hộ gia đình ông Hoàng Văn Ngãi đã bị một đối tượng tên là Thiên, chuyên thuê xe ô tô, máy múc đến khu vực này múc đất bán. Sự việc được người dân phản ánh lên xã, tuy nhiên, không hiểu vì sao hàng nghìn mét khối đất vẫn theo xe “nối đuôi nhau” đi ra.

Anh Nguyễn Văn H, thôn 6, xã Vĩnh Hưng cho biết: “Tình trạng khai thác đất trái phép ở đây đã diễn ra nhiều năm nay. Khi có ngành chức năng vào cuộc thì chúng tôi thấy dừng được một thời gian rồi lại đâu vào đấy. Đợt vừa rồi mới khai thác lại được khoảng 1 tuần nay. Xe cộ chạy ầm ầm bất kể ngày hay đêm. Người dân chúng tôi bức xúc lắm vì đường sá hư hỏng, xe cộ chạy khiến bụi mù mịt việc tham gia giao thông rất khó khăn".

Lý giải về việc một số đối tượng múc đất sai quy định xảy ra trên địa bàn xã, ông Trịnh Văn Thống – Cán bộ Địa chính xã Vĩnh Phúc cho biết: "Trước gia đình ông Hoàng Văn Ngãi, thôn Tân Phúc cũng có làm tờ trình xin hạ độ cao của đất trồng mía nhưng xã không đồng ý. Sau khi nhận được thông tin một số đối tượng lấy đất bán chúng tôi đã xuống nhắc nhở, yêu cầu dừng việc khai thác đất trái phép. Hôm trước tôi cũng nghe nói là có anh công an xin lấy để đắp nền nhà? Nhưng sau khi xã nhắc nhở đã không làm nữa".

Thế nhưng khi chúng tôi đưa ra hình ảnh máy múc, xe tải vẫn đang ùn ùn chở đất đi ông Thống ấp úng: "Tôi không quản lý mảng này, mà giao cho một đồng chí khác". Khi chúng tôi yêu cầu được tiếp cận tờ trình xin hạ thấp độ cao và biên bản xử phạt thì ông Thống lại nói: "Hiện giờ đồng chí giữ giấy tờ đó đã đi vắng, nhưng hôm trước cũng không thấy báo cáo gì".

Trưởng phòng TN&MT huyện Vĩnh Lộc -  ông Nguyễn Văn Công cho biết: "Hiện tại phòng đã vào kiểm tra và yêu cầu chấm dứt ngay việc khai thác đất trái phép. Đồng thời cũng đã làm việc với lãnh đạo xã cần kiểm tra sát sao không để tình trạng tái diễn. Tôi cũng nghe nói là gia đình ông Ngãi có xin hạ cốt nền".

Rất mong các cơ quan chức năng của huyện Vĩnh Lộc và tỉnh Thanh Hóa nhanh chóng vào cuộc làm rõ trách nhiệm của từng cá nhân, tập thể và có biện pháp xử lý nghiêm minh.

Chất thải được công ty Phương Duy giấu dưới đáy ghe xả ra sông Hậu


Công ty TNHH Phương Duy có trụ sở tại khu công nghiệp Trà Nóc 2, Quận Ô Môn, Tp. Cần Thơ) đang trong quá trình chờ kết quả giám định chất thải của cơ quan chức năng (Cụ thể là đại tá Nguyễn Hoàng Trình, trưởng phòng cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (PC49) trực tiếp củng cố hồ sơ xử lý) vì nghi vấn công ty này xả thải trực tiếp ra sông Hậu vào chiều 7.9.




Theo cơ quan công an, Công ty TNHH Phương Duy do ông Phạm Sỹ Thái (56 tuổi, ngụ P.26, Q.Bình Thạnh, TP.HCM) làm Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm giám đốc, chuyên sản xuất chitin, chitosan, D-Glucosamine... Khoảng 22 giờ ngày 4.9, trinh sát PC49 bắt quả tang ông Nguyễn Hoàng An, công nhân công ty, dùng ghe máy kéo chất thải rắn màu đen đựng trong túi lưới 2 lớp dưới lườn ghe, ra xả thải xuống sông Hậu. Ngoài ra, trinh sát còn phát hiện ông An đang vận chuyển trên ghe than hoạt tính thải ra sau quá trình sử dụng để chiết xuất D-Glucosamine để trực tiếp đổ xuống sông Hậu.




Tiến hành kiểm tra công ty, PC49 phát hiện tại khu vực sản xuất có ngụy trang 2 đường ống ngầm chôn dưới nền gạch để nối vào bể chứa chất thải chưa qua xử lý. Từ đây, nước thải trong quá trình ngâm vỏ đầu tôm và tro phát sinh từ đốt lò hơi được các công nhân bơm xuống bể chứa. Sau đó, dùng máy bơm chất thải theo đường ống ngầm thứ nhất xuống một túi lưới được cột dưới lườn ghe nằm dưới mặt nước để ghe kéo ra thả trên sông Hậu. Còn ống ngầm thứ hai được sử dụng thải nước thải sản xuất từ quá trình ngâm hóa chất để chiết xuất D-Glucosamine trực tiếp xuống rạch Cái Chôm. Nước thải màu trắng đục, bốc mùi hôi hóa chất nồng nặc.




Làm việc với cơ quan chức năng, bước đầu các công nhân thực hiện hành vi trên khai được thuê để vận chuyển các chất thải ra sông Hậu vào ban đêm, nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng cũng như người dân trong khu vực.






PC49 đã gửi 2 mẫu nước xả thải trực tiếp ra rạch Cái Chôm và 3 mẫu chất thải rắn thải ra sông Hậu đi giám định. Theo một cán bộ PC49, hành vi lén xả thải của công ty trên là rất tinh vi, khó phát hiện. Trước đó, Công TNHH Phương Duy từng bị Bộ TN-MT và Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (C49) kiểm tra nhưng không phát hiện hệ thống ngầm của công ty dùng để xả nước thải và chất thải rắn ra sông Hậu.

TP.HCM, thành phố sương mù

Mặc cho thời tiết oi bức, thành phố Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục bị bao phủ bởi màn sương dày đặc. Các chuyên gia khuyến cáo tránh hít không khí trực tiếp vào buổi sáng sớm và đầu giờ chiều khi sương mù xuất hiện nhiều.


Tuyến đường Phạm Văn Đồng (Thủ Đức) 

Liên tiếp từ ngày 13 đến 14-10 vừa qua, sương mù dày đặc khắp các quận, huyện tại thành phố Hồ Chí Minh. Nhất là các tòa nhà cao tầng khu vực quận 1, quận 2, quận 7 bị che khuất. Sáng sớm hàng loạt sà lan, thuyền di chuyển trên kênh Tẻ  phải bật đèn để tránh đâm va vào nhau.

Theo Thạc sĩ Lê Thị Xuân Lan, chuyên gia khí tượng (nguyên phó phòng dự báo Đài Khí tượng thủy văn khu vực Nam bộ), hiện tượng trên được gọi là sương mù tổng hợp, thành phần gồm có khói bụi lẫn hơi ẩm.

Bà Lan cho biết, vào đầu tháng 10-2015 tại  Indonesia xảy ra thảm họa cháy rừng, ngya lúc đó gió mùa Tây Nam thổi đã kéo theo khói bụi lan sang các nước xung quanh. Trong đó có Việt Nam, Campuchia, Singapore…

Bà Lan còn cho biết thêm: “Những ngày qua mưa chỉ diễn ra cục bộ nên không gội rửa sạch khói bụi, trong khi đó lượng khói bụi quá nhiều, hiện vẫn còn tồn đọng một ít không khí bẩn tại TP HCM và một số tỉnh thành miền Đông Nam Bộ. Thêm vào đó, mưa xảy  ra nhiều, nhiệt độ trung bình về đêm chỉ có 22 độ C dẫn đến  độ ẩm rất cao, khoảng 90%, nên đã dẫn đến sương mù tổng hợp”.

Phó giám đốc Đài khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ - ông Đặng Văn Dũng, cho biết hiện tượng sương mù sẽ tiếp tục diễn ra trong vài ngày nữa. Để đảm bảo sức khỏe, tránh hít phải không khí ô nhiễm mỗi khi ra đường người dân cần trang bị khẩu trang. Ngoài ra, tránh tiếp xúc trực tiếp với nước  mưa, bởi lượng bụi bẩn rất cao.


Khu vực quận 7

Mùa hạn ở Tây Nguyên hồ đập cạn khô

Mặc dù đang là mùa mưa nhưng hầu các hồ, đập ở các tỉnh Tây Nguyên , theo thường trực Ban Chỉ Đạo Tây Nguyên là chưa tích đủ lượng nước cần thiết để phục vụ chống hạn mùa khô năm 2015-2016. Thậm chí có công trình mới chỉ tích nước được 30% giảm gấp nhiều lần so với năm 2014 nên dự báo của tỉnh là sẽ thiếu hụt nguồn nước nghiêm trọng trong sinh hoạt và sản xuất.



Theo dự báo của các đơn vị chức năng, mùa mưa năm nay đến muộn và kết thúc sớm, nhất là khu vực Tây Nguyên nên lượng mưa có thể thiếu hụt từ 30-60% ngay trong những tháng mùa mưa và hạn hán nghiêm trọng diễn ra trên diện rộng trong mùa khô kế tiếp. Theo đó, lượng mưa ở khu vực Tây Nguyên từ tháng 9/2015 đến tháng 2/2016 có khả năng thấp hơn so trung bình nhiều năm khoảng 20 đến 50%.


Ông Bùi Văn Sứng, Phó Giám đốc Đài Khí tượng thủy văn tỉnh Đắk Lắk cho biết, từ đầu năm đến nay, lượng mưa trong toàn tỉnh giảm hơn so trung bình nhiều năm từ 60-98%. Tại Đắk Lắk, mặc dù đang là mùa mưa, nhưng mấy tháng nay mưa cũng rải rác, không tập trung, lượng nước các sông, suối thấp hơn gấp nhiều lần so với các năm trước.


Do vậy, hiện nay, phần lớn các hồ, đập lớn của tỉnh như Krông Búk hạ, Vụ Bổn (Krông Pắk), hồ Buôn Triết (huyện Lắk), hồ Ea Kao (thành phố Buôn Ma Thuột)… dung tích nước chỉ mới đạt 27,8% đến trên 30%, thấp gần 3m so cùng kỳ năm 2014. Thậm chí, tỉnh Đắk Lắk vẫn còn trên 40 công trình hồ, đập đang ở mực nước chết.


Tại các tỉnh Kon Tum, Gia Lai cũng vẫn còn hàng trăm công trình hồ, đập đang ở mực nước chết hoặc mới tích nước được dưới 30%. Trong mùa khô vừa qua, các tỉnh Tây Nguyên đã có hàng trăm công trình thủy lợi cạn khô đáy, không còn khả năng hoạt động làm hàng chục ngàn hécta cây trồng bị khô cháy mất trắng. Ngay tại tỉnh Đắk Lắk đã có 200 trình trình thủy lợi không còn khả năng hoạt động; trong đó có 176 công trình hồ chứa, 21 đập dâng cạn khô đáy, không còn dòng chảy và 3 trạm bơm không còn nguồn nước hoạt động. Lượng nước tại các hồ chứa lớn chỉ còn 10 đến 20% dung tích nên tỉnh Đắk Lắk có 61.446 ha cây trồng bị khô hạn; trong đó diện tích mất trắng trên 4.364 ha, thiệt hại trên 2.009 tỷ đồng.


Hiện nay, toàn vùng Tây Nguyên đã xây dựng được trên 2.261 công trình thủy lợi; trong đó, có 1.150 hồ chứa, 942 đập dâng, 114 trạm bơm, 55 công trình khác, với diện tích tưới thiết kế 268.987 ha, nhưng thực tế chỉ mới tưới cho 202.166 ha. Trong đó, các công trình thủy lợi ở Tây Nguyên tưới cho gần 73.000 ha lúa, trên 112.627 ha cây công nghiệp dài ngày, chủ yếu là cây cà phê và gần gần 17.000 ha cây màu, rau các loại, mới đạt 17,6% so với diện tích các loại cây có nhu cầu cần tưới ở địa bàn Tây Nguyên.

Các điểm tập kết rác thải sinh hoạt khiến người dân Hà Nội khốn đốn

Mỗi ngày lượng rác thải sinh hoạt thành phố Hà Nội với hơn 30 đơn vị hành chính thải ra khoảng 5.400 tấn, giờ cao điểm lên tới 7.000 tấn trong khi các quận mới như : Cầu Giấy, Tây Hồ, Thanh Xuân, Long Biên, Hoàng Mai, Hà Đông tỉ lệ thu gom rác thải mới chỉ đạt trên 70%.




Chính vì điều này là căn nguyên dẫn tại một số nơi ở Thủ đô người dân phải khốn khổ vì ô nhiễm ngay từ chính các điểm tập kết rác thải sinh hoạt, ùn ứ chưa kịp chuyên chở hoặc do cách làm tắc trách của một số cán bộ, công nhân vệ sinh môi trường.

Đoạn đối diện với trạm y tế phường Yên Hòa tại tuyến đường Nguyễn Khang (quận Cầu Giấy, Hà Nội) cứ buổi chiều hàng ngày có từ 3 đến 5 thùng rác, thậm chí có thời điểm lên tới cả chục thùng. Các thùng kể trên đều chất đầy các loại rác thải sinh hoạt. Điều đáng nói là những thùng rác tập kết tại đường Nguyễn Khang thường xuyên ở tình trạng không che phủ bạt, nên bốc mùi hôi thối ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân khu vực.

Anh Ngô Sỹ Long là cán bộ của trạm y tế phường Yên Hòa cho biết, rác thải tập kết ở đây gây ảnh hưởng lớn đến vệ sinh môi trường khu vực. Bởi khu vực này thường xuyên có nhiều người qua lại, nhất là trong các đợt phát thuốc cho người già, tiêm chủng, nhỏ vi ta min cho trẻ em... người dân phải xếp hàng đứng đợi, hứng chịu mùi xú uế. Đặc biệt, vào những ngày nắng nóng, việc phát tán mùi càng mạnh mẽ hơn, còn khi trời mưa lớn, nước bẩn từ thùng rác thải rỉ ra đường, nguy cơ phát tán bệnh tật cao.

Cũng ở tình cảnh tương tự, một số hộ dân ở ngõ 629, phố Kim Mã (quận Ba Đình, Hà Nội) cho biết, nhiều năm nay phải chịu cảnh ô nhiễm do những thùng đựng rác thải gây ra. Không chỉ gây ô nhiễm môi trường, những thùng rác thải được tập kết ven đường, còn làm mất mỹ quan đường phố, tiềm ẩn nhiều hiểm họa đối với người tham gia giao thông, nhất là vào buổi tối.

Chị Nguyễn Thị Vân, người dân ngõ 629 bức xúc: "Chúng tôi đã nhiều lần kiến nghị tới các cấp di chuyển điểm tập kết rác thải đi nơi khác, nhưng từ nhiều năm nay chưa được cấp có thẩm quyền giải quyết, không biết người dân ở đây phải chịu cảnh ô nhiễm đến khi nào".

Đó chỉ là hai trường hợp điển hình của tình trạng một số thùng thu gom rác thải mất vệ sinh trên địa bàn Thủ đô, đang có tác dụng ngược, khiến nhiều người dân phải chịu cảnh ô nhiễm.

Trao đổi với ông Phạm Văn Đức, Phó Tổng giám đốc công ty TNHH Một thành viên Môi trường Đô thị Hà Nội được biết, đơn vị được giao quản lý đảm bảo môi trường tại các quận: Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình, Hai Bà Trưng và Long Biên. Theo quy định, với những thùng thu gom rác được tập kết tại vị trí quy định, sau khoảng hai tiếng sẽ được xe chuyên dụng đến chở đi. Các thùng rác khi tập kết đều phải che phủ bạt để tránh phát tán ô nhiễm.

Cũng theo ông Phạm Văn Đức, việc người dân phản ánh ô nhiễm là có cơ sở vì không phải lúc nào công nhân cũng thực hiện đúng quy trình. Tuy nhiên, cũng không ít gia đình, hộ dân do làm ăn, buôn bán không muốn những thùng rác án ngữ "mặt tiền", nên thường có ý kiến. Nhưng đó không phải là do công ty môi trường muốn đặt thùng ở đâu tùy thích mà mỗi địa điểm đều phải xin ý kiến của phường, tổ dân phố. Trong trường hợp những tổ đội, tập kết rác sai vị trí sẽ bị thanh tra nội bộ của công ty phạt. Ngoài ra, với việc tập kết rác sai quy định, còn bị thanh tra xây dựng của quận, công an khu vực xử lý do vi phạm trật tự an toàn giao thông.

Hiện tại công tác thu gom, xử lý rác thải trên địa bàn thành phố Hà Nội đã được xã hội hóa, tổng cộng có 26 đơn vị tham gia, trong đó có nhiều công ty tư nhân, công ty cổ phần. Thực tế cho thấy, mặc dù là lĩnh vực công ích, nhưng khi doanh nghiệp tham gia sẽ tính đến bài toán lỗ lãi. Có lẽ xuất phát từ vấn đề doanh thu, lợi nhuận nên một số doanh nghiệp tham gia lĩnh vực thu gom, xử lý rác thải trên địa bàn Hà Nội đã nghĩ ra những cách làm ngang tắt, tự ý rút bớt quy trình, không tuân thủ các quy định về vệ sinh môi trường đối với việc tập kết rác chờ xử lý để giảm ngày công lao động, dẫn đến ô nhiễm môi trường. Tình trạng này đồi hỏi các cơ quan chức năng liên quan của thành phố Hà Nội cần thường xuyên kiểm tra, kịp thời chấn chỉnh những doanh nghiệp chưa chấp hành tốt các quy định về thu gom, xử lý rác thải, nhằm bảo vệ môi trường sống cho người dân.

Năm nay thành phố Hà Nội tiếp tục chọn là "Năm trật tự văn minh đô thị", với quyết tâm xây dựng thành phố ngày càng sáng xanh, sạch đẹp hơn. Bên cạnh việc xây dựng thêm những nhà máy xử lý rác; bổ sung thêm xe vận chuyển rác... thì với những kiến nghị của người dân về đảm bảo vệ sinh môi trường xung quanh địa điểm tập kết rác thải, cũng cần được các cơ quan chức năng của thành phố quan tâm xem xét, nghiên cứu để tìm ra phương thức thu gom, xử lý rác một cách hợp lý, khoa học hơn, nhằm hạn chế phát sinh ô nhiễm môi trường ngay từ chính những công cụ phục vụ bảo vệ môi trường.

Khói bụi và khí thải lò vôi gây ô nhiễm môi trường tại khu vực Cầu Nghìn



Nhiều năm qua, người dân thuộc tổ dân phố Cầu Nghìn, thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình phải sống chung với ô nhiễm khói bụi, khí phát thải từ các lò nung vôi ngay cạnh khu dân cư.




Thực tế này ảnh hưởng rất lớn đến việc sinh hoạt, kinh doanh và tiềm ẩn nguy cơ bệnh tật mà người dân mắc phải do chính khói bụi và khí phát thải từ quá trình nung vôi thải ra.

Hiện tại “thủ phủ” sản xuất vôi này có 30 hộ sản xuất kinh doanh vôi với tổng cộng 64 lò (hơn 115 ống lò) có công suất khác nhau, sản lượng ước đạt từ 8 đến 10 tấn/lò/ngày. Đặc biệt, trong đó số các lò vôi này có tới 25 lò vôi nằm trong phạm vi hành lang bảo vệ cầu, đường Quốc lộ 10 và xen kẽ trong khu dân cư.

Các lò vôi này được nung đốt cả ngày lẫn đêm khiến cho môi trường ở đây bị đe dọa nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt của người dân địa phương. Để “sống chung với lũ”, nhiều hộ gia đình đã phải dùng bao bạt che chắn cửa nhà. Điều dễ dàng nhận thấy nhất khu vực này, các cây xanh trên những con đường trong và quanh khu vực lò vôi bị bao bọc bởi một lớp bụi xám. Nhiều hộ kinh doanh nhà nghỉ cũng đìu hiu khách vì vấn nạn khói bụi lò vôi khiến phòng ốc quanh năm bụi bám.
Khói bụi ở nơi đây khiến dân chúng tôi rất bức xúc, ảnh hưởng nhiều đến đời sống, mùi nồng nặc ở khắp mọi nơi , ngõ ngách  theo lời ông Nguyễn Trọng Hơn cho biết. Chúng tôi không thể chịu được , sớm muộn gì cũng mắc bệnh thôi.

Chủ tịch UBND ông Phạm Đức Thuận,  thị trấn An Bài cũng thừa nhận, việc sản xuất vôi đã tạo ra những ảnh hưởng không tốt đến đời sống của nhân dân quanh khu vực. Tình hình môi trườngtại khu vực này chủ yếu phát sinh từ khói bụi vôi và bụi xỉ từ các lò vôi phát tán ra môi trường trong quá trình sàng lọc vôi, sàng xỉ; quá trình vận chuyển vôi đi tiêu thụ, bụi phát tán ra ở tầm thấp cũng ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.

Được biết, khu sản xuất vôi tập trung tại Cầu Nghìn có tiền thân là Xí nghiệp Vôi Cầu Nghìn hoạt động sản xuất kinh doanh từ rất lâu. Vào những năm 1989-1990, Xí nghiệp này giải thể, chuyển cho hộ cá nhân kinh doanh. Từ đây, một số hộ gia đình đã xây dựng lò vôi và kinh doanh bến bãi, vật liệu xây dựng phục vụ xây dựng và sản xuất nông nghiệp trong khu vực. Tháng 8/2004, UBND tỉnh Thái Bình ban hành quyết định số 31, cấp bằng công nhận khu Cầu Nghìn là “Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng”.

Trước yêu cầu của nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước, nhiều hộ gia đình đã đầu tư vốn để xây dựng lò vôi theo hướng quy mô hơn nhằm đáp ứng sản lượng xuất khẩu. Nhiều hộ gia đình cũng dùng phần diện tích đất ở của mình để xây dựng lò vôi, kinh doanh sản xuất và mua đất ở chuyển đến khu vực khác.

Ông Nguyễn Duy Xuyền, một chủ lò vôi cho biết: Tôi có 2 lò vôi, cao 12 đến 15m, ngày sản xuất 10 tấn vôi/lò. Hai lò đều chạy liên hoàn, gần như lửa cháy quanh năm, giải quyết việc làm cho khoảng 30 lao động. Toàn bộ cẩu đá, than, vôi lên lò đều có cần cẩu, theo dây chuyền nên vốn bỏ ra rất lớn.

Theo chính quyền thị trấn An Bài, sản lượng vôi sản xuất ở “thủ phủ lò vôi” này chủ yếu xuất khẩu đi thị trường nước ngoài và cung cấp cho nhà máy thép Shengli, có thời điểm cung cấp đến 100 tấn vôi/ngày. Mỗi lò thu nhập bình quân từ 7 đến 10 triệu đồng/lò/ngày. Công việc sản xuất vôi ở đây giải quyết cho hơn 1.000 lao động, trong đó số lao động tại thị trấn chiếm 2/3 tổng số lao động, cho thu nhập bình quân 3,5 triệu đến 4 triệu đồng/người/tháng.

Năm 2012, Ủy Ban Nhân Dân thị trấn An Bài đã lập quy hoạch và trình UBND huyện Quỳnh Phụ phê duyệt quy hoạch 19ha khu kinh doanh vật liệu xây dựng, bến bãi và được UBND huyện Quỳnh Phụ chấp thuận.


Năm 2013, Bộ Xây dựng đã có công văn số 2135 (ngày 11/10/2013) về việc dừng cấp phép xây dựng lò sản xuất vôi thủ công; Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Thái Bình cùng các sở ngành liên quan cũng đã có văn bản chỉ đạo dừng hẳn việc cho phép đầu tư xây dựng các dự án sản xuất vôi tại khu vực Cầu Nghìn.

Tuy nhiên theo ông Nguyễn Ngọc Chiến, Phó Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ cho biết, đến thời điểm hiện tại, trong 64 lò vôi đang hoạt động sản xuất vôi trên tại khu vực Cầu Nghìn thì chỉ có 16 hộ (37 lò) đã được UBND huyện Quỳnh Phụ phê duyệt cho phép hoạt động; còn lại 14 hộ (27 lò) chưa được cơ quan chức năng phê duyệt, đang chờ phê duyệt.

Thừa nhận việc khói bụi, khí phát thải từ hoạt động sản xuất vôi tác động đến môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân. Song, việc tìm giải pháp hữu hiệu nhất, khả thi nhất để bảo đảm môi trường, sức khỏe người dân trước tác động của khói bụi, khí phát thải trong quá trình sản xuất vôi ở khu Cầu Nghìn thì chính quyền địa phương lại vẫn đang loay hoay.

Theo lời  Phó Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Theo ông Nguyễn Ngọc Chiến, thị trấn An Bài, tại tổ dân phố Cầu Nghìn đã thành lập được 1 đội vệ sinh môi trường, quét dọn 4 lần/ngày; đồng thời mua xe phun nước để phun các tuyến đường dân sinh, đoạn dốc cầu Quốc lộ 10. Chính quyền địa phương cũng đã khuyến cáo, yêu cầu các hộ kinh doanh phải che chắn và phun nước giữ ẩm tại khu vực sản xuất không để bụi phát tán ra bên ngoài... Về lâu dài, theo Công văn 507 của Bộ Xây dựng, chúng tôi sẽ dần từng bước xóa bỏ hết các lò vôi thủ công trên toàn địa bàn.